ANTĐ – Điều 143 – Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về người đại diện theo ủy quyền: Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
Như vậy, thực tiễn thực hiện Bộ luật Dân sự năm 2005 trong thời gian qua chỉ xảy ra trường hợp một cá nhân ủy quyền cho một cá nhân hoặc một pháp nhân (người đại diện theo pháp luật của pháp nhân) ủy quyền cho một cá nhân trong pháp nhân (hoặc một nhân sự thuộc biên chế của pháp nhân đó, thường là cấp phó hoặc một vị trí quản lý trong pháp nhân) hoặc một cá nhân bên ngoài pháp nhân.
Bên cạnh đó, trong thực tế, tranh cãi về việc một pháp nhân ủy quyền cho một pháp nhân khác đã xảy ra khá phổ biến và chưa có hồi kết, bởi quy định tại Điều 143 – Bộ luật Dân sự quy định bên nhận ủy quyền là “người khác”. Mà “người” thì thông thường được hiểu là một cá nhân.
Trong khi đó, theo quy định của Luật Luật sư, một trong những ngành nghề kinh doanh thuộc chức năng của Công ty Luật, Văn phòng Luật sư là “đại diện ngoài tố tụng”. Tuy nhiên, khi thực hiện chức năng nêu trên, áp dụng đúng Điều 143 – Bộ luật Dân sự thì bên nhận ủy quyền phải là cá nhân một luật sư chứ không phải danh nghĩa của Công ty Luật hay Văn phòng nơi luật sư đó thuộc biên chế. Mặt khác, trên thực tế thực hiện các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các doanh nghiệp (pháp nhân) luôn có nhu cầu ủy quyền cho một pháp nhân khác thực hiện một hoặc một số công việc vì lợi ích của doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, cái vướng của quy định về bên nhận ủy quyền là “người khác” của Điều 143 – Bộ luật Dân sự đã cản trở các doanh nghiệp thực hiện việc ủy quyền từ doanh nghiệp này cho doanh nghiệp khác một cách trực tiếp.
“Vì vậy, khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự năm 2005, tôi kiến nghị sửa đổi đối tượng được nhận ủy quyền bao gồm thể nhân và pháp nhân, từ đó pháp nhân sẽ chỉ định một cá nhân thuộc quyền quản lý của mình để thực hiện phạm vi ủy quyền” – luật sư Thanh Hà kiến nghị.