Hoạt động ủy thác theo Luật Việt Nam

0
381

Hiện tại, trong Luật Thương mại có quy định về hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa từ điều 155 đến điều 165 thuộc Mục 3, Chương 5. Theo đó,

ü    Bên nhận uỷ thác thực hiện việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác và được nhận thù lao uỷ thác;

ü    Bên nhận uỷ thác mua bán hàng hoá là thương nhân kinh doanh mặt hàng phù hợp với hàng hoá được uỷ thác.

Một quy định khác về hoạt động ủy thác là tại Thông tư 04/2012/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, quy định về nghiệp vụ nhận ủy thác và ủy thác của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, trong đó có nội dung ủy thác cho vay.

Theo Thông tư này, ngân hàng nào muốn thực hiện hoạt động ủy thác cho vay thì ngân hàng đó cũng phải có giấy phép được Ngân hàng Nhà nước cho phép ngân hàng đó thực hiện hoạt động ủy thác cho vay và được nhận phí ủy thác.

Từ những quy định này, chúng ta có thể rút ra những điểm chung nhất của hoạt động ủy thác là:

(i)                Thực hiện mua bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ và được nhận thù lao;

(ii)             Hàng hóa mua bán và dịch vụ do bên nhận ủy thác thực hiện phải là những hàng hóa và dịch vụ mà bên nhận ủy thác đang được phép kinh doanh theo ghi nhận trên giấy phép.