Ngày 26/11/2014, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2014 và sẽ phát sinh hiệu lực kể từ 01/07/2015.
Cơ cấu của Luật Doanh nghiệp năm 2014 gồm có 10 chương, 213 điều, tăng 41 điều so với Luật doanh nghiệp 2005;
Đặc biệt, luật doanh nghiệp mới có thêm Chương IV quy định về Doanh nghiệp nhà nước với 22 điều.
Bên cạnh đó, luật còn có Điều 10, quy định về tiêu chí, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội .
Để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân, công ty Luật SBLAW trân trọng giới thiệu một số điểm mới của Luật như sau:
Thứ nhất: các nhà xây dựng luật đã có tư duy mở trong quá trình xây dựng luật khi luật chỉ quy định những vấn đề chung về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp,
Thứ hai: Luật mới có quy định mới về hoạt động của Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, bên cạnh đó, luật cũng có quy định cuộc họp được ghi biên bản và có thể ghi âm hoặc ghi và lưu giữ dưới hình thức điện tử khác
Luật đã chốt lại địa điểm họp được xác định là nơi chủ tọa tham dự họp, mọi người không nhất thiết phải cùng ngồi họp một chỗ.
Thứ Ba: Luật DN đã luật hóa việc dùng mã số thuế làm mã số doanh nghiệp. Luật cũng bãi bỏ nhiều quy định không có khả thi trong luật cũ như quy định cấm một người đã làm Giám đốc (Tổng Giám đốc) công ty cổ phần không được làm Giám đốc (Tổng Giám đốc) Công ty khác.
Thứ tư: Luật có quy định mới về con dấu doanh nghiệp, cụ thể là doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ cần thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
Thứ năm: Nội dung Giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (CNĐKDN) chỉ còn 4 mục so với 10 mục như trước đây (bỏ nội dung quy định về ngành nghề kinh doanh, danh sách cổ đông sáng lập, Chi nhánh, Văn phòng dại diện, Địa điểm kinh doanh .v.v.). Bên cạnh đó, luật cũng đã bỏ việc ghi ngành nghề kinh doanh trong Giấy CNĐKDN; bỏ việc xác định vốn pháp định, chứng chỉ hành nghề .v.v.
Thứ Sáu: Luật mới đã bãi bỏ quy định Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy CNĐKDN. Vì vậy, các nhà đầu tư nước ngoài muốn kinh doanh tại Việt Nam sẽ phải tiến hành 2 thủ tục, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư sau đó sẽ thành lập doanh nghiệp.
Thứ bảy: Luật cho phép Công ty TNHH một thành viên được giảm vốn điều lệ và cũng có quy định về việc xác định, đăng ký vốn thực của doanh nghiệp.
Thứ tám: Luật giảm tỷ lệ dự họp từ 65% xuống còn 51% theo đó khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết là cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được diễn ra.
Thứ chín: Luật còn quy định về quy chế của thành viên hội đồng quản trị độc lập, không tiến hành tham gia điều hành trực tiếp doanh nghiệp;
Thứ mười: Luật không bắt buộc các công ty cùng loại mới được sáp nhập, hợp nhất chia, tách. Bên cạnh đó, luật cũng quy định rõ ràng về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm cũng như trình tự thủ tục, hồ sơ để tiến hành thủ tục này.
Quý vị có thể tải luật doanh nghiệp sửa đổi tại đây: