Những rủi ro tiềm ẩn khi quảng cáo sai sự thật trên mạng xã hội

0
753

Cá nhân khi thực hiện hành vi quảng cáo sai sự thật trên các kênh mạng xã hội trực tuyến sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp lý theo pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và pháp luật về quảng cáo. 

1. Đối với pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng:

Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010, hành vi lừa dối hoặc gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng thông qua hoạt động quảng cáo hoặc che giấu, cung cấp thông tin không đầy đủ, sai lệch, không chính xác được xem là một trong những hành vi bị pháp luật cấm.

Ngoài ra, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn quy định người quảng cáo, dưới vai trò là “bên thứ ba” trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng còn phải chịu trách nhiệm liên đới về việc cung cấp thông tin không chính xác hoặc không đầy đủ, trừ trường hợp chứng minh đã thực hiện tất cả các biện pháp theo quy định của pháp luật để kiểm tra tính chính xác, đầy đủ của thông tin về hàng hóa, dịch vụ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 13 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010.

2.Đối với pháp luật về quảng cáo:

Hành vi quảng cáo không đúng về chất lượng, công dụng của sản phẩm, hàng hóa là hành vi bị nghiêm cấm theo quy định tại khoản 9 Điều 8, Luật Quảng cáo 2012, được sửa đổi, bổ sung vào năm 2018.

Theo đó, trong trường hợp có hành vi vi các quy định trên thì người vi phạm có thể sẽ phải chịu các loại trách nhiệm pháp lý sau:

a. Trách nhiệm hành chính (Khoản 5, 7 và 8 Điều 34 NĐ 38/2021/NĐ-CP):

Theo quy định tại khoản 5 Điều 34 Nghị định 38/2021/NĐ-CP quy định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa và quảng cáo:

Hình phạt chính:

Cá nhân sẽ bị phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với hành vi:Quảng cáo không đúng hoặc gây nhầm lẫn về khả năng kinh doanh, khả năng cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; về số lượng, chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, bao bì, nhãn hiệu, xuất xứ, chủng loại, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đã đăng ký hoặc đã được công bố. Riêng đối với trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 51, điểm b khoản 4 Điều 52, khoản 1 Điều 60, điểm c khoản 1 Điều 61 Nghị định 38/2021/NĐ-CP áp dụng mức phạt khác, cụ thể như sau:

  • Khoản 4 Điều 51: Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với hành vi Quảng cáo mỹ phẩm có tác dụng như thuốc gây hiểu nhầm sản phẩm đó là thuốc.
  • Điểm b khoản 4 Điều 52: Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi Quảng cáo thực phẩm chức năng gây hiểu nhầm có tác dụng như thuốc chữa bệnh.
  • Khoản 1 Điều 60: Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với hành vi Quảng cáo sai sự thật về bản chất, công dụng, chất lượng, nguồn gốc, xuất xứ của thức ăn chăn nuôi, thức ăn thủy sản, chất cải tạo môi trường chăn nuôi, chất cải tạo môi trường thủy sản.
  • Điểm c khoản 1 Điều 61: Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi Quảng cáo giống cây trồng không đúng hoặc gây nhầm lẫn về khả năng kinh doanh của tổ chức, cá nhân kinh doanh giống (số lượng, chất lượng, giá bán), nội dung ghi trên nhãn, nhãn hiệu.

Hình phạt bổ sung:

Tước quyền sử dụng Giấy tiếp nhận đăng ký bản công bố sản phẩm từ 05 đến 07 tháng; tước quyền sử dụng Giấy xác nhận nội dung quảng cáo từ 22 tháng đến 24 tháng đối với vi phạm quy định tại khoản 5 Điều 34 Nghị định 38/2021/NĐ-CP trong trường hợp vi phạm về quảng cáo thực phẩm bảo vệ sức khỏe từ 02 lần trở lên trong thời hạn 06 tháng.

Biện pháp khắc phục hậu quả:

  • Buộc tháo gỡ, tháo dỡ, xóa quảng cáo hoặc thu hồi sản phẩm báo, tạp chí in quảng cáo đối với hành vi; và
  • Buộc cải chính thông tin đối với hành vi.

b. Trách nhiệm dân sự:

Căn cứ điểm c, Khoản 2, Điều 12 Luật Quảng cáo 2012, được sửa đổi, bổ sung vào năm 2018, người quảng cáo có nghĩa vụ chịu trách nhiệm về sản phẩm quảng cáo của mình trong trường hợp trực tiếp thực hiện quảng cáo trên các phương tiện, đồng thời, liên đới chịu trách nhiệm về sản phẩm quảng cáo trong trường hợp thuê người khác thực hiện.

Như vậy, người tiêu dùng có thể khởi kiện nhà sản xuất sản phẩm cùng với người có hành vi quảng cáo sai sự thật đó để yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định tại Khoản 3, Điều 16 Luật Quảng cáo 2012, được sửa đổi, bổ sung vào năm 2018 và Điều 608 Bộ luật dân sự 2015, khi sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội dung khác mà tổ chức, cá nhân đã quảng cáo.

c. Trách nhiệm hình sự:

Căn cứ quy định tại Điều 197 Bộ luật Hình sự 2015, hành vi này có thể cấu thành tội quảng cáo gian dối:

  • Người nào quảng cáo gian dối về hàng hóa, dịch vụ, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.