Trong chuyên mục bạn đọc của Báo ANTĐ điện tử có phần đóng góp sửa đổi Bộ Luật Dân Sự, luật sư Nguyễn Thị Thu, CEO công ty luật SBLAW có gửi phần đóng góp với nội dung sau:
Trong dự thảo Bộ luật dân sự, có rất nhiều sửa đổi và bổ sung. Tôi sẽ chỉ đi sâu vào các quy định hợp đồng.
Tại khoản 1 điều 409 của Dự thảo bộ luật dân sự có quy định:
“Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ đối với nhau.”
Trước đó, Bộ luật dân sự 2005 có quy định khác như sau:
“Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ đối với nhau.”
Như vậy, phạm vi điều chỉnh của Bộ luật đã được mở rộng hơn rất nhiều so với quy định cũ. Ở đây ta có thể hiểu hợp đồng bao gồm tất cả những hợp đồng dân sự và hợp đồng không phải hợp đồng dân sự.
Hợp đồng dân sự là hợp đồng được ký kết giữa một bên là cá nhân với một bên là pháp nhân hoặc một cá nhân khác. Nhưng theo quan điểm của tôi, chúng ta vẫn nên quy định như cũ. Hợp đồng dân sự khi có tranh chấp sẽ do tòa án dân sự giải quyết, hợp đồng kinh doanh thương mại, lao động sẽ do tòa tương ứng giải quyết. Vậy việc để tên “ Hợp đồng dân sự” là rõ ràng và hợp lý hơn.
Cũng tại khoản 2 Điều 409 Dự thảo Bộ luật dân sự có quy định bổ sung:
“2. Hợp đồng được quy định trong các văn bản pháp luật khác có liên quan phải tuân theo những quy định chung về hợp đồng quy định tại Bộ luật này.”
Tuy nhiên theo quy định Tại Điều 122 Luật nhà ở 2014 về hợp đồng mua bán Nhà ở có quy định như sau:
“Điều 122. Công chứng, chứng thực hợp đồng và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về nhà ở
1. Trường hợp mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại thì phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
Đối với các giao dịch quy định tại khoản này thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm công chứng, chứng thực hợp đồng”
Trong trường hợp này, người mua nhà chỉ cần giao tiền nhận nhà và làm thủ tục tại cơ quan công chứng chứng thực là coi như căn nhà đã thuộc sở hữu của mình mà chưa cần thiết phải có sổ đỏ. Như vậy các nhà làm luật cần lưu ý về vấn đề thời hiệu của hợp đồng. Tránh trường hợp quy định chồng chéo rất khó thực hiện thậm chí đôi khi không khả thi.
Dân ta hay có câu nói vui “ Im lặng nghĩa là đồng ý”. Trước đây, khi bộ luật dân sự 2005 chưa có quy định cụ thể, các bên cũng ngầm hiểu với nhau như vậy tuy nhiên nhiều khi việc này có thể dẫn tới tranh chấp.
Tôi có thể đưa ra một ví dụ như sau, một anh A sang chơi nhà anh B (anh trai) thấy nhà anh trai đã bị mốc nên ngỏ ý sơn sửa lại nhà cửa cho anh trai mình và kiếm ít tiền tiêu Tết. Anh B không nói gì và bỏ vào nhà chuẩn bị đồ đi thăm bà con xa. Anh A ở nhà hí hửng tưởng anh B im lặng là đồng ý nên làm việc rât hăng say. Tuy nhiên, tới ngày anh B về thì anh B viện cớ mình chưa đồng ý cho anh A làm nên anh B không trả tiền. Anh A rất bực minh và hai anh em nảy sinh mâu thuẫn. Vậy nếu luật có quy định sớm hơn:
“2. Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa họ.”
thì các bên đã không có tranh chấp xảy ra.