Câu hỏi:
Gia đình mình được nhà nước cấp đất ở lâu năm, giấy được viết tay. Hai đầu thổ đất là 6m nhưng đến 2015 làm thủ tục đổi sang bìa thì UBND huyện đo hụt phía sau thửa đất còn lại có 5,9 m và bù sang mảnh đất liền kề của ông hàng xóm. Do tôi đi công tác xa. Gia đình có mẹ tôi đứng ra làm thủ tục và đã ký vào biên bản nhưng khi nhận được bìa đỏ mới phát hiện ra. Vậy tôi phải làm gì để bảo vệ quyền lợi của gia đình mình?
Luật sư tư vấn:
Công ty Luật TNHH SB LAW cảm ơn bạn đã quan tâm đến dịch vụ tư vấn pháp luật của chúng tôi.
Liên quan đến thắc mắc của bạn, chúng tôi xin tư vấn như sau:
Điều 96 Luật đất đai năm 2013 quy định về hồ sơ địa chính như sau:
“1. Hồ sơ địa chính bao gồm các tài liệu dạng giấy hoặc dạng số thể hiện thông tin chi tiết về từng thửa đất, người được giao quản lý đất, người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, các quyền và thay đổi quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất.”
Theo thông tin bạn cung cấp, gia đình bạn sử dụng đất ở lâu năm với chiều dài 2 đầu thổ đất là 6m và chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến năm 2015 đo đạc để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì chỉ còn 5,9m và phần bị hụt nằm trong thửa đất của nhà hàng xóm.
Trường hợp này, bạn cần lên địa chính ở xã, phường, thị trấn xin trích lục hồ sơ thửa đất đồng thời xuất trình biên lai đóng thuế của mảnh đất đó để xác định lại diện tích đất mình đã sử dụng từ trước đến nay từ đó tìm ra nguyên nhân cấp không đủ diện tích cho gia đình bạn. Có thể xảy ra các trường hợp như sau:
– Trường hợp 1: Do việc đo đạc bị nhầm lẫn dẫn đến diện tích bị sai lệch giữa thực tế và trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Khi đó, gia đình bạn làm đơn tường trình gửi tới cơ quan đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để yêu cầu xác minh lại diện tích đất gia đình bạn sử dụng. Nếu có sai sót từ phía cơ quan có thẩm quyền hoặc do sự kê khai sai từ người sử dụng đất thì cơ quan có thẩm quyền sẽ thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 106 Luật đất đai 2013:
“Điều 106. Đính chính, thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp
…
- Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây:
a) Nhà nước thu hồi toàn bộ diện tích đất trên Giấy chứng nhận đã cấp;
b) Cấp đổi Giấy chứng nhận đã cấp;
c) Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai”.
– Trường hợp 2: Đất nhà bạn có thể bị người hàng xóm lấn chiếm. Khi đó bạn cần xin trích lục hồ sơ địa chính của những thửa đất xung quanh và xin đo đạc lại.
Nếu có căn cứ chứng minh đất bị người hàng xóm lấn chiếm, trước tiên bạn và gia đình lấn chiếm có thể tự thỏa thuận để giải quyết với nhau theo quy định tại Điều 202 Luật đất đai 2013:
“Điều 202. Hòa giải tranh chấp đất đai
- Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.
- Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải”.
Nếu không hòa giải được thì làm đơn gửi tới Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đang có đất để yêu cầu giải quyết tranh chấp. Nếu không hòa giải được thì một trong các bên có quyền làm đơn khởi kiện tới Tòa án nhân dân cấp huyện hoặc gửi đơn khiếu nại yêu cầu giải quyết tới Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đang có đất theo quy định tại Điều 203 Luật đất đai 2013:
“Điều 203. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
- Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
- Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; …”.