Vụ việc hai nghệ sĩ Việt Nam tại Tây Ban Nha

0
390

Luật sư Nguyễn Thanh Hà – Chủ tịch Công ty Luật TNHH SB Law đã có quan điểm về “Vụ việc hai nghệ sĩ Việt Nam tại Tây Ban Nha. Dưới đây là nội dung chi tiết:

Luật sư Nguyễn Thanh Hà – Chủ tịch Công ty Luật TNHH SB Law

Câu hỏi: Những tội hiếp dâm người 17 tuổi sẽ bị xử lý thế nào?

Trả lời:

Theo pháp luật Tây Ban Nha, Dự luật mới được thông qua tháng 5/2022 ở Tây Ban Nha, quan hệ tình dục không đồng thuận có thể bị coi là tội hiếp dâm và phải chịu án tù lên đến 15 năm.

Theo Điều 179 của Bộ luật Hình sự Tây Ban Nha, người phạm tội hiếp dâm có thể bị xử phạt từ 6-12 năm tù.

Tuy nhiên hồi tháng 5/2022, Quốc hội Tây Ban Nha thông qua dự luật yêu cầu phải có sự đồng thuận rõ ràng đối với các hành vi tình dục.

Dự luật mới xác định sự đồng ý là sự thể hiện rõ ràng ý chí của một người, rằng sự im lặng hoặc thụ động không phải là sự đồng ý. Vì vậy, quan hệ tình dục không đồng thuận có thể bị coi là hiếp dâm và phải chịu án tù lên đến 15 năm.

Với vụ việc này cần chờ kết luận chính thức từ phía cơ quan tố tụng trên cơ sở các căn cứ pháp lý và tiến trình thực hiện thủ tục tố tụng tại nước sở tại.

Theo đó, nếu có dấu hiệu tội phạm, các cơ quan chức năng sẽ cần tiến hành các cuộc điều tra, xác minh làm rõ hành vi của các cá nhân có liên quan để có căn cứ xử lý theo quy định pháp luật.

Để xử lý về tội tấn công tình dục, hiếp dâm, cơ quan tố tụng phải chứng minh rằng đã có hành vi giao cấu trái ý muốn, quan hệ tình dục trái ý muốn đối với nạn nhân.

Còn trong trường hợp hành vi quan hệ tình dục là tự nguyện và có trả tiền thì đây chỉ là hành vi mua bán dâm.

Theo pháp luật Việt Nam, với tội hiếp dâm, căn cứ theo điều 141, Bộ luật Hình sự 2015, khung hình phạt thấp nhất là 2-7 năm tù. Trường hợp phạm tội có tổ chức, khung hình phạt từ 7-15 năm tù. Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.

Câu hỏi: Trong trường hợp nếu được xác định vi phạm pháp luật tại Tây Ban Nha, hai nghệ sĩ sẽ bị xử lý theo hệ thống pháp luật tại quốc gia nào?

Trả lời:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung 2017), hiệu lực của Bộ luật Hình sự với những hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như sau:

“1. Công dân Việt Nam hoặc pháp nhân thương mại Việt Nam có hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Bộ luật này quy định là tội phạm, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật này.”

Như vậy, không chỉ trong trường hợp vi phạm pháp luật tại Việt Nam mới bị xử lý theo quy định pháp luật Việt Nam mà người Việt Nam phạm tội ở nước ngoài có thể bị xử lý hình sự theo quy định của Pháp luật Việt Nam.

Việc xử lý tội phạm diễn ra tại nước ngoài còn cần thông qua các hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam và nước sở tại. Theo như danh mục các hiệp định về tương trợ tư pháp và pháp lý giữa Việt Nam và các nước thì Việt Nam và Tây Ban Nha đã ký kết hiệp định tương trợ tư pháp vào ngày 15/08/2015.

Theo quy định tại Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì phạm vi hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự phải đảm bảo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau và theo nguyên tắc có đi có lại, phù hợp pháp luật và tập quán quốc tế, không trái pháp luật Việt Nam

Câu hỏi: Với việc Việt Nam đã ký Hiệp định Tương trợ tư pháp với Vương quốc Tây Ban Nha, việc xét xử, truy cứu trách nhiệm hình sự các nghệ sĩ có thể diễn ra tại Việt Nam hay không?

Trả lời:

Điều 20 Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự được ký kết giữa Việt Nam và Tây Ban Nha quy định: Thông qua Cơ quan trung ương, các bên có thể chuyển giao việc truy cứu trách nhiệm hình sự cho các cơ quan tư pháp của bên kia khi xét thấy bên đó có điều kiện thuận lợi hơn để tiến hành việc điều tra, truy tố và xét xử tội phạm.

Bên được yêu cầu phải thông báo cho bên yêu cầu thủ tục tố tụng áp dụng đối với vụ án được chuyển giao và nếu thấy phù hợp, gửi cho bên yêu cầu bản sao quyết định được ban hành.

Như vậy, Tây Ban Nha có thể chuyển giao việc truy cứu trách nhiệm hình sự cho các cơ quan tư pháp của Việt Nam khi xét thấy Việt Nam có điều kiện thuận lợi hơn để tiến hành việc điều tra, truy tố và xét xử tội phạm.

Vụ việc hai nghệ sĩ Việt Nam tại Tây Ban Nha

Câu hỏi: Các nghệ sĩ có thể bị dẫn độ về Việt Nam trong trường hợp phạm tội không? Theo hiệp định, những trường hợp nào có thể dẫn độ người phạm tội về Việt Nam?

Trả lời:

Ngày 01 tháng 10 năm 2014, Việt Nam và Tây Ban Nha đã ký kết Hiệp định về dẫn độ. Trong đó, Hiệp định này quy định, việc dẫn độ chỉ được thực hiện đối với những tội phạm có thể bị kết tội theo pháp luật cả hai Bên và thỏa mãn một trong các điều kiện sau:

a) Nếu yêu cầu dẫn độ để tiến hành các thủ tục tố tụng thì tội phạm đó phải có hình phạt tù với thời hạn từ một năm trở lên theo quy định của pháp luật hai Bên; hoặc

b) Nếu yêu cầu dẫn độ để tiếp tục thi hành hình phạt hoặc biện pháp bảo đảm liên quan đến tước tự do, thì tại thời điểm đưa ra yêu cầu dẫn độ, thời gian tiếp tục chấp hành hình phạt của người bị yêu cầu dẫn độ phải còn ít nhất là sáu tháng.

– Khi xác định một hành vi phạm tội cố cấu thành một tội phạm theo pháp luật của cả hai Bên như quy định tại khoản 1 Điều này, sẽ không tính đến việc hành vi đó có được đặt trong cùng một nhóm tội hoặc được gọi với cùng một tội danh hay không.

– Nếu yêu cầu dẫn độ liên quan đến hai hay nhiều hành vi, mà mỗi hành vi đó đều cấu thành một tội phạm theo quy định của pháp luật hai Bên và ít nhất một trong số các hành vi đó đáp ứng điều kiện về thời hạn phạt tù quy định tại khoản 1 Điều này, Bên được yêu cầu có thể chấp nhận dẫn độ đối với tất cả các hành vi đó.

Câu hỏi:Trường hợp nghệ sĩ được xác định vô tội, những tổ chức, cá nhân sử dụng trái phép hình ảnh của 2 nghệ sĩ có thể bị xử lý ra sao?

Trả lời:

Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình được quy định theo Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015, theo đó việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được sự đồng ý của người đó và việc sử dụng hình ảnh của người khác vào mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Như vậy, việc tự ý đăng ảnh người khác khi chưa có sự đồng ý của người đó hoặc đăng ảnh có liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân khi chưa có sự đồng ý của người đó là hành vi vi phạm pháp luật, có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể:

Thứ nhất, về xử phạt hành chính:

– Theo khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin, an toàn thông tin mạng và giao dịch điện tử quy định:

+ Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân.

+ Phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 30 triệu đồng đối với hành vi tiết lộ thông tin bí mật đời tư cá nhân mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

+ Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc gỡ bỏ thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn hoặc thông tin vi phạm pháp luật.

– Theo điểm e khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP, phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với hành vi sử dụng thông tin của tổ chức, cá nhân khác mà không được sự đồng ý hoặc sai mục đích theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, về xử lý hình sự

Hành vi đăng ảnh người khác lên mạng xã hội khi chưa được sự cho phép của người đó nhằm mục đích xúc phạm danh dự, nhân phẩm người đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội làm nhục người khác theo Điều 155 Bộ luật hình sự:

– Người có hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 30 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

– Trường hợp sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Ngoài ra, người vi phạm có thể bị áp dụng biện pháp xử phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Do đó, mọi người cần tỉnh táo khi chia sẻ những thông tin chưa xác thực vì đây mới chỉ là những thông tin ban đầu, cần phải có thông tin, cụ thể chính xác từ các cơ quan chức năng của nước sở tại. Vụ việc sẽ phụ thuộc vào kết quả điều tra xác minh của cơ quan chức năng theo quy định của pháp luật.