Luật sư Nguyễn Thanh Hà – Chủ tịch Công ty Luật TNHH SB LAW đã trả lời phỏng vấn trong chương trình S Tiêu điểm về Hành lang pháp lý nào cho bán lẻ trên mạng?. Dưới đây là nội dung chi tiết bài phỏng vấn:
Câu 1: Thưa luật sư hình thức mua bán qua mạng xã hội liệu phải chăng đang bị buông lỏng quản lý?
Luật sư trả lời: |
Nhà nước không cấm việc bán hàng qua mạng xã hội, tuy nhiên việc bán hàng trên mạng xã hội cũng phải thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Bán hàng trên mạng xã hội là một hình thức kinh doanh thương mại điện tử. Hoạt động thương mại điện tử được quy định tại Nghị định số 52/2013/NĐ-CP, theo đó đối tượng áp dụng là thương nhân, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động thương mại điện tử trên lãnh thổ Việt Nam, bao gồm: Thương nhân, tổ chức cá nhân Việt Nam; cá nhân nước ngoài cư trú tại Việt Nam; thương nhân, tổ chức nước ngoài có sự hiện diện tại Việt Nam thông qua hoạt động đầu tư, lập chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc thiết lập website dưới tên miền Việt Nam.
Theo quy định tại Thông tư 47/2014/TT-BCT quy định về quản lý website thương mại điện tử, các mạng xã hội có một trong các hình thức hoạt động sau sẽ phải tiến hành thủ tục đăng ký với Bộ Công Thương dưới hình thức sàn giao dịch TMĐT, bao gồm: website cho phép người tham gia được mở các gian hàng trên đó để trưng bày, giới thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ; website cho phép người tham gia được lập các website nhánh để trưng bày, giới thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ; website có chuyên mục mua bán, trên đó cho phép người tham gia đăng tin mua bán hàng hóa và dịch vụ.
Khi bán hàng trên mạng xã hội phải thực hiện quy định tại Điều 37 Nghị định 52/2013/NĐ-CP về trách nhiệm của người bán trên sàn giao dịch thương mại điện tử. Cụ thể như sau:
– Cung cấp đầy đủ và chính xác các thông tin quy định tại Điều 29 Nghị định này cho thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ sàn giao dịch thương mại điện tử khi đăng ký sử dụng dịch vụ;
– Cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hóa, dịch vụ theo quy định từ Điều 30 đến Điều 34 Nghị định này khi bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên sàn giao dịch thương mại điện tử;
– Đảm bảo tính chính xác, trung thực của thông tin về hàng hóa, dịch vụ cung cấp trên sàn giao dịch thương mại điện tử;
– Thực hiện các quy định tại Mục 2 Chương II Nghị định này khi ứng dụng chức năng đặt hàng trực tuyến trên sàn giao dịch thương mại điện tử;
– Cung cấp thông tin về tình hình kinh doanh của mình khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phục vụ hoạt động thống kê thương mại điện tử;
– Tuân thủ quy định của pháp luật về thanh toán, quảng cáo, khuyến mại, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các quy định của pháp luật có liên quan khác khi bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên sàn giao dịch thương mại điện tử;
– Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật.
Tóm lại việc bán hàng trên mạng xã hội phải thực hiện các quy định tại Nghị định số 52/2013/NĐ-CP; Thông tư 47/2014/TT-BCT và các quy định khác có liên quan đến kinh doanh; sử dụng dịch vụ Internet…
Như vậy, pháp luật đã có những quy định khá rõ ràng với những mức chế tài cụ thể dành cho những hành vi vi phạm để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, điều đáng nói pháp luật chưa có biện pháp hiệu quả để quản lý những đối tượng vi phạm. Việc kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm đang bị buông lỏng nên không ít người tiêu dùng đã bị lừa đảo vì hàng hóa giả mạo, kém chất lượng, không rõ nguồn gốc xuất xứ, …
Câu 2: ở những tình huống mua bán bị lừa, rồi nhà may bị ăn cắp mẫu mã quảng cáo bán hàng nhái như phóng sự trên thì những nạn nhân này chỉ còn cách ngậm đắng nuốt cay mất tiền chứ chẳng biết kiện ai, vậy thì có hay không lỗ hổng về hành lang pháp lý khi mua bán qua mạng xã hội thưa ông?
Luật sư trả lời: |
Như tôi đã trình bày ở trên, pháp luật đã có những quy định khá rõ ràng với những mức chế tài cụ thể dành cho những hành vi vi phạm để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, một số vấn đề vẫn còn đang bỏ ngỏ. Cụ thể như: Thiếu chế tài cho các hành vi vi phạm khi kinh doanh TMĐT qua mạng xã hội và nền tảng thiết bị di động. Quy định chưa rõ ràng đối với danh sách các website TMĐT khuyến cáo người tiêu dùng thận trọng. Thiếu hướng dẫn tiết chi về quy trình giao kết hợp đồng mua hàng trực tuyến.
Quy định hiện hành cho phép Bộ Công thương công bố công khai trên cổng thông tin Quản lý hoạt động TMĐT danh sách các website TMĐT bị phản ánh về việc có dấu hiệu vi phạm
pháp luật. Câu hỏi đặt ra, đây là điều kiện quản lý nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh hay là cơ sở để cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện? Quy định hiện hành không giới hạn những người có quyền phản ánh website có dấu hiệu vi phạm pháp luật, cũng không quy định chi tiết quy chế xác thực, dẫn tới rủi ro các đối thủ cạnh tranh lợi dụng phản ánh lẫn nhau.
Bên cạnh website TMĐT, các mạng xã hội, đặc biệt là Facebook, được sử dụng rất phổ biến ở Việt Nam. Hiện số người sử dụng các diễn đàn mạng xã hội để mua sắm trực tuyến cũng gia tăng. Số doanh nghiệp sử dụng nền tảng di động như kênh liên lạc giữa nhà bán lẻ và người tiêu dùng ngày càng tăng. Do đó, quản lý các mạng xã hội kinh doanh TMĐT cũng như nền tảng di động cũng không kém phần cấp thiết. Hiện nay chưa có quy định quản lý TMĐT trên nền tảng di động cũng như chế tài tương ứng với hành vi vi phạm. Thông tư quy định việc quản lý hoạt động kinh doanh trên mạng xã hội nhưng lại không có các chế tài cụ thể cho hành vi vi phạm đối với kinh doanh trên mạng xã hội tại Nghị định 185/2013/NĐ-CP.
Câu 3: Nhiều quan điểm cho rằng chúng ta nên học nước ngoài, khi mua bán qua mạng, phải qua một đơn vị trung gian xác nhận trước khi chuyển tiền?
Luật sư trả lời: Ngày 11/12/2014, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 39/2014/TT-NHNN hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán (viết tắt Thông tư 39/2014/TT-NHNN), được quy định tại Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2013 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt. Thông tư 39/2014/TT-NHNN làm rõ các loại hình dịch vụ trung gian thanh toán, đồng thời đưa ra các quy định cụ thể đối với hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, bao gồm: Quản lý rủi ro, đảm bảo an toàn, bảo mật; đảm bảo khả năng thanh toán; hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải thực hiện các quy định sau: Một là, xây dựng và thực hiện các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng điện tử; Hai là, bảo đảm an toàn, bảo mật hệ thống công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng; an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử; Ba là, tuân thủ các quy định về việc lập, sử dụng, bảo quản, lưu trữ chứng từ điện tử theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử trong hoạt động Ngân hàng. |
Với những trường hợp mua bán lẻ và cá nhân, tốt nhất nên giao dịch trực tiếp (trả tiền mặt) hoặc qua một đơn vị trung gian thanh toán để đảm bảo việc này. Đây cũng là một giải pháp hay. Tuy nhiên, ở Việt Nam những đơn vị như vậy không có nhiều. Do đó, cũng sẽ gặp khó khăn khi áp dụng giải pháp này.
Câu 4: Kinh doanh trên mạng xã hội chủ yếu là các cá nhân, hộ kinh doanh cá thể nhỏ và siêu nhỏ, trong Hội nghị Apec một số gợi ý cũng đã đặt ra với Việt Nam đó là cần định danh cá nhân bằng lo go nhận diện trên trang web bán hàng, theo ông liệu có khả thi với phương án quản lý này hay không?
+ Thu hút khách hàng nhiều hơn so với bạn nghĩ. + Thu hút nhiều nhà đầu tư và đối tác kinh doanh. + Làm cho công ty bạn có vẻ lớn hơn so với thực tại + Góp phần tạo sự tin tưởng cho khách hàng nhiều hơn. Tuy nhiên, muốn giải pháp này khả thi tại Việt Nam, thì phải xây dựng cơ chế và lộ trình cụ thể.
Theo quy định tại Thông tư số 47/2014/TT-BCT, cá nhân, tổ chức lập website để kinh doanh phải có trách nhiệm thông báo, đăng ký website thương mại điện tử với Bộ Công Thương tại Cổng thông tin Quản lý hoạt động thương mại điện tử www.online.gov.vn. Những trang web không đăng ký, thông báo có thể do chưa biết quy định về việc phải đăng ký, thông báo website TMĐT, cũng có thể do cố tình không đăng ký, thông báo vì website đang bán hàng trôi nổi, hàng kém chất lượng hoặc hàng hóa không được quảng cáo. Điều 100 Nghị định 185/2013/NĐ-CP có quy định về thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính như sau: “Những người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định từ Điều 101 đến Điều 103 của Nghị định này và Trinh sát viên Cảnh sát biển đang thi hành nhiệm vụ có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm hành chính quy định tại Nghị định này theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao”. Trong trường hợp trên thuộc thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, tỉnh, Đội trưởng Đội Quản lý thị trường; Chi cục trưởng Chi cục Quản lý thị trường thuộc Sở Công Thương, Trưởng phòng Chống buôn lậu, Trưởng phòng Chống hàng giả, Trưởng phòng Kiểm soát chất lượng hàng hóa thuộc Cục Quản lý thị trường; Cục trưởng Cục Quản lý thị trường có quyền.
Cá nhân, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại điện tử (TMĐT) dưới các hình thức website TMĐT bán hàng, website cung cấp dịch vụ TMĐT và các loại hình website khác nếu không đăng ký, thông báo sẽ bị xử phạt theo quy định của Nghị định 185/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 124/2015/NĐ-CP) về Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Cụ thể (Điều 81): “3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: a)Thiết lập website thương mại điện tử bán hàng hoặc ứng dụng bán hàng mà không thông báo với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định; …………….. 4. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây: a) Thiết lập website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử mà không đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định; ……………. 5. Hình thức xử phạt bổ sung: Đình chỉ hoạt động thương mại điện tử từ 06 tháng đến 12 tháng đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 2, 3 và Điểm a, b, c và d Khoản 4 Điều này trong trường hợp vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm …”.
|