Cổ đông sáng lập phải mua ít nhất bao nhiêu cổ phần phổ thông được quyền chào bán của công ty

0
3475

Câu hỏi: Tôi và 3 người bạn dự định thành lập công ty cổ phần. Được biết, 4 cổ đông sáng lập chúng tôi cần phải mua một số lượng nhất định cổ phần phổ thông công ty chào bán. Xin hỏi pháp luật quy định lượng cổ phẩn phổ thông cổ đông sáng lập phải mua là bao nhiêu và mục đích của việc quy định như vậy là gì?

Luật sư tư vấn:

Công ty Luật TNHH SB LAW cảm ơn bạn đã quan tâm đến dịch vu tư vấn pháp luật của chúng tôi. Liên quan đến thắc mắc của bạn, chúng tôi xin tư vấn như sau:

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014: “Cổ đông sáng lập là cổ đông sở hữu ít nhất một cổ phần phổ thông và ký tên trong danh sách cổ đông sáng lập công ty cổ phần.

Cụ thể, Khoản 2 Điều 119 Luật Doanh nghiệp về cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập quy định:

2. Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp.”

Pháp luật hiện hành quy định như vậy bởi:

Thứ nhất, để đảm bảo vốn điều lệ mà công ty cổ phần đã đăng ký không phải là vốn ảo và đảm bảo số vốn thực góp sau thời điểm 90 ngày kể từ ngày đăng ký thành lập doanh nghiệp.

Sau khi đăng ký thành lập doanh nghiệp, công ty có quyền chào bán cổ phần phổ thông để huy động vốn, tăng vốn điều lệ theo quy định tại Điều 122 Luật Doanh nghiệp 2014. Do vậy, sau 90 ngày kể từ ngày đăng ký thành lập doanh nghiệp, cổ đông sáng lập cần mau ít nhất 20% số cổ phần phổ thông được chào bán để xác định số vốn thực góp, tránh tình trạng cổ đông sáng lập tự thỏa thuận với nhau khai khống khoản vốn điều lệ, gây nên những rủi ro cho các nhà đầu tư vào doanh nghiệp.

Thứ hai, để đảm bảo quyền lợi của cổ đông sáng lập trong công ty nên luật quy định tỉ lệ cổ phần phổ thông tối thiếu mà cổ đông sáng lập cần nắm giữ.

Khoản 3 Điều 113 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập sau 03 năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp sẽ chuyển đổi thành cổ phần phổ thông. Như vậy, về lâu dài, để đảm bảo những quyền lợi của người sáng lập công ty, các cổ đông sáng lập cần nắm giữ một lượng cổ phần phổ thông nhất định để có quyền biểu quyết những vấn đề trong doanh nghiệp.