Chế tài cho văn phòng công chứng hoạt động chui.

0
454

Vụ việc phát hiện văn phòng phòng công chứng (VPCC) Sao Bắc Đẩu giả (số 229 Man Thiện, phường Hiệp Phú, quận 9, TPHCM là giả.

Ở vụ việc này, hành vi rõ nhất của công chứng viên là hoạt động “chui” và sử dụng con dấu giả của cơ quan, tổ chức. Từ vụ việc này, luật sư Nguyễn Thanh Hà từ SBLAW đã trả lời cơ quan báo chí về chế tài đối với hành vi này.

Câu hỏi 1: Hành vi sử dụng con dấu giả của cơ quan, tổ chức, sẽ bị xử lý hành chính, trách nhiệm dân sự và hình sự như thế nào, thưa Luật sư?

Trả lời:

Hành vi sử dụng con dấu giả của cơ quan, tổ chức là trái quy định của pháp luật và tùy vào hậu quả xảy ra có thể bị xử lý vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực cụ thể. Nếu đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức.

Thứ nhất, xử phạt vi phạm hành chính:

Điều 12 Nghị định 167/2013/NĐ-CP Vi phạm các quy định về quản lý và sử dụng con dấu như sau:

“4. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:a) Mang con dấu vào nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà không có giấy phép hoặc không có giấy chứng nhận đã đăng ký mẫu dấu;b) Sử dụng trái phép con dấu mang từ nước ngoài vào Việt Nam;

c) Làm giả hồ sơ để làm thêm con dấu của cơ quan, tổ chức;

d) Khắc dấu giả hoặc sử dụng con dấu giả.

  1. Hình thức xử phạt bổ sung:

a) Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại Điểm a Khoản 2; Điểm d Khoản 3; Điểm c, d Khoản 4 Điều này;

b) Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề trong thời hạn từ 03 tháng đến 06 tháng đối với hành vi quy định tại Điểm a Khoản 2; Điểm d Khoản 3 Điều này.

  1. Biện pháp khắc phục hậu quả:

a) Buộc thu hồi con dấu đối với hành vi quy định tại Điểm b, đ, e Khoản 2; Điểm c Khoản 3; Điểm c, d Khoản 4 Điều này;

b) Buộc thu hồi con dấu, giấy chứng nhận đã đăng ký mẫu dấu đối với hành vi quy định tại Điểm g Khoản 2; Điểm a Khoản 3 Điều này;

c) Buộc hủy bỏ văn bản, giấy tờ đóng dấu sai quy định đối với hành vi quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều này”.

Vì vậy, bạn cần phải báo cho cơ quan công an tại địa phương để tiến hành các thủ tục điều tra, xác minh và xử phạt vi phạm. Nếu như có dấu hiệu vi phạm quy định pháp luật hình sự thì cơ quan điều tra sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự của những đối tượng này.

Thứ hai, truy cứu trách nhiệm hình sự:

Căn cứ Điều 341 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định, “Người nào làm giả con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác của cơ quan, tổ chức hoặc sử dụng con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm.”

Hình phạt dành cho hành vi này sẽ căn cứ theo tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm. Mức hình phạt cao nhất cho tội phạm này có thể lên đến 7 năm tù.

Nếu việc sử dụng con dấu giả gây thiệt hại, đó là thiệt hại cho các nạn nhân trong trường hợp giao dịch là các hợp đồng mua bán, chuyển nhượng bất động sản hay thỏa thuận vay mượn để từ đó các bên thực hiện nghĩa vụ thì một phần thiệt hại đó có thể buộc cá nhân, tổ chức của cơ quan công chứng kia bồi thường theo quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015.

Câu hỏi 2: Xử lý đối với công chứng viên và văn phòng công chứng hoạt động “chui” như thế nào?.

Trả lời:

Điều 74 Luật Công chứng năm 2014 quy định về việc xử lý vi phạm đối với cá nhân, tổ chức hành nghề công chứng bất hợp pháp như sau:

“1. Cá nhân không đủ điều kiện hành nghề công chứng mà hành nghề công chứng dưới bất kỳ hình thức nào thì phải chấm dứt hành vi vi phạm, bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

  1. Tổ chức không đủ điều kiện hành nghề công chứng mà hành nghề công chứng dưới bất kỳ hình thức nào thì phải chấm dứt hành vi vi phạm, bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”.

Vấn đề này được quy định cụ thể tại Nghị định số 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 67/2015/NĐ-CP). Theo đó:

Với cá nhân không đủ điều kiện hành nghề công chứng mà hành nghề công chứng, căn cứ quy định tại điểm b, khoản 5 Điều 14 Nghị định này, cá nhân sẽ bị xử phạt với mức phạt từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Bên cạnh đó, cá nhân này cũng sẽ bị buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được từ hành vi này.

Với tổ chức không đủ điều kiện hành nghề công chứng mà hành nghề công chứng, căn cứ quy định tại khoản 6 Điều 15 Nghị định này, mức phạt dành cho hành vi này từ 40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng và bị Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.

Câu hỏi 3: Phải chăng những quy định của luật pháp về hoạt động của công chứng viên và văn phòng công chứng chưa chặt chẽ, nên mới xảy ra vụ việc như vậy?

Trả lời:

Hiện nay, vấn đề về điều kiện hành nghề của công chứng viên cũng như các vấn đề về thành lập, tổ chức và hoạt động của các văn phòng công chứng đã được pháp luật quy định một cách khá chi tiết và cụ thể trong Luật công chứng và các văn bản hướng dẫn hiện hành.

Vấn đề để xảy ra những sự việc đáng tiếc trên theo tôi nằm ở khâu quản lý, giám sát, thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Câu hỏi 4: Nếu những bản công chứng được văn phòng công chứng này công chứng, đã được khách hàng mang đi giao dịch, chúng ta phải xử lý hậu quả, trách nhiệm như thế nào?

Trả lời:

Những văn bản được công chứng, chứng thực bởi chủ thể không có thẩm quyền, do đó, về nguyên tắc những văn bản công chứng này sẽ không có giá trị hiệu lực.

Nhưng có hai vấn đề, rằng nó đương nhiên vô hiệu hay phải qua tòa giải quyết. Hoặc khi phát hiện ra các giao dịch phát sinh được thực hiện từ hợp đồng được công chứng giả nhưng muốn tiếp tục thực hiện thì phải giải quyết như thế nào thì luật lại chưa dự liệu được để đưa ra hướng giải quyết.

Do đó, rủi ro mà khách hàng của những văn phòng công chứng này gặp phải là rất lớn. Theo tôi, cần xét từng tính chất của hợp đồng để giải quyết hậu quả.

Ví dụ hợp đồng vay không cần phải công chứng, chứng thực thì bản hợp đồng này vẫn có giá trị.

Đối với các giao dịch bắt buộc phải công chứng thì nếu các bên không có tranh chấp thì có thể ra một VPCC khác lập lại hợp đồng và nêu rõ, hợp đồng trước đó được công chứng, chứng thực tại VPCC Sao Bắc Đẩu không có giá trị.

Trường hợp có tranh chấp thì buộc các bên phải ra tòa, khi đó hợp đồng buộc tuyên vô hiệu và bên gây thiệt hại là VPCC giả phải bồi thường thiệt hại phát sinh.

Câu hỏi 5: Trách nhiệm của các cơ quan quản lý, cụ thể ở đây là UBND phường về quản lý hoạt động của văn phòng công chứng này ra sao?

Trả lời:

Điều 7 luật Công chứng năm 2014 nghiêm cấm công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng mở chi nhánh, văn phòng đại diện, cơ sở, địa điểm giao dịch khác ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng, vì vậy không có chuyện VPCC Quận 12 mở thêm chi nhánh tại Quận 9. Sở Tư pháp là cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động trong lĩnh vực công chứng. Nhưng trong chuyện này, cũng cần xem xét trách nhiệm quản lý địa bàn của UBND/công an quận, phường khi để một văn phòng công chứng hoạt động trên địa bàn, 600 hồ sơ được công chứng, chứng thực.

Câu hỏi 6: Hiện đang có chủ trương mở rộng việc cấp phép nhiều hơn nữa cho các văn phòng công chứng và công chứng viên. Từ vụ việc này, liệu có nên siết lại việc thành lập văn phòng công chứng và cấp chứng chỉ hành nghề cho công chứng viên?

Trả lời:

Quan điểm của tôi là không nên siết chặt vấn đề thành lập. Như tôi phân tích ở trên, pháp luật hiện hành đã có những quy định khá cụ thể và chặt chẽ về điều kiện thành lập văn phòng công chứng.

Tuy nhiên, những vụ việc sai phạm nghiêm trọng đáng tiếc vẫn xảy ra. Do đó, theo tôi, điều chúng ta cần hoàn thiện, làm tốt hơn nữa là công tác hậu kiểm. Cụ thể là hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật.

Câu hỏi 7: Từ vụ việc này, có thể khẳng định hoạt động công chứng, chứng thực đang bị buông lỏng, vậy theo…làm thế nào để môi trường công chứng, chứng thực trong sạch?

Trả lời:

Cũng giống như nhiều ngành nghề khác, hoạt động công chứng cũng đã xảy ra hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, làm giả, … Nó làm giảm đi hình ảnh của nghề công chứng, khiến hoạt động công chứng thụt lùi, chứ không thể phát triển được.

Thiết nghĩ, cơ quan có thẩm quyền cần cương quyết thanh lọc loại tội phạm mới, làm trong sạch môi trường công chứng, chứng thực, đảm bảo an toàn pháp lý cho người dân. Và điều quan trọng nhất là nâng cao ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật cho đội ngũ công chứng viên. Để chủ động ngăn ngừa trong công tác quản lý hoạt động ở lĩnh vực công chứng, thì cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Sở Tư Pháp với các quận, huyện của các tỉnh.