Án phạt nào cho kẻ gây ra vụ cướp ngân hàng ở Hải Phòng?

0
579

Luật sư Nguyễn Thanh Hà – Chủ tịch Công ty Luật TNHH SB Law đã có những giải đáp về khung pháp lý có thể áp dụng đối với kẻ gây ra vụ cướp ngân hàng ở Hải Phòng. Dưới đây là nội dung chi tiết:

Câu hỏi: Thưa luật sư Nguyễn Thanh Hà, mấy ngày gần đây dư luận đang rất quan tâm đến vụ cướp 3 tỷ đồng tại Ngân hàng ở Hải Phòng. Theo quy định của pháp luật, hành vi của Nguyễn Văn Nam sẽ bị xử lý như thế nào?

Trả lời:

Theo Công an Hải Phòng, vào khoảng 15h20′ ngày 7/1, tại phòng giao dịch ngân hàng Vietcombank ở đường Đình Vũ, phường Đông Hải 2, quận Hải An xảy ra vụ một đối tượng dùng vật nghi là súng uy hiếp, khống chế giao dịch viên và cướp số tiền khoảng 3 tỷ đồng.

Với hành vi này, đối tượng có thể sẽ bị xử lý về tội “Cướp tài sản” theo quy định của Điều 168 Bộ luật hình sự 2015. Cụ thể, Nguyễn Văn Nam có thể phải đối mặt với khung hình phạt cao nhất của Tội cướp tài sản là phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

Ngoài ra, đối tượng còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 1 năm đến 5 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Câu hỏi: Sau 2 ngày gây án đối tượng đã bị bắt giữ cùng khẩu súng và nhiều tang vật khác. Việc đối tượng sử dụng súng để uy hiếp và thực hiện hành vi đe dọa nhằm cướp tiền có được coi là yếu tố tăng nặng không?

Trả lời:

Đối với khẩu súng đối tượng sử dụng gây án, nếu kết quả giám định xác định là súng quân dụng hoặc có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng thì đối tượng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về Tội Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng quy định theo Điều 304 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) với mức phạt tù từ 01 năm đến 07 năm.

Câu hỏi: Với chiếc xe máy 700 phân khối mà đối tượng dùng tiền cướp được để mua, pháp luật quy định bị hại trong trường hợp này là bên bán xe hay ngân hàng? Và ngoài việc bị thu hồi tài sản là chiếc xe máy 700 phân khối, đối tượng còn phải bồi thường tổn thất như thế nào cho bên bán xe, ngân hàng?

Trả lời:

Đối với chiếc xe máy Kawasaki ZX 10R mà Nguyễn Văn Nam đã dùng tiền cướp được để mua, cần làm rõ bên bán xe có biết tiền này là do phạm tội mà có hay không, nếu có thì sẽ xử lý hình sự về Tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại Điều 323 Bộ luật Hình sự 2015.

Nếu bên bán không biết tiền mua xe của Nguyễn Văn Nam là tiền vừa cướp ngân hàng thì giao dịch mua bán này có thể hợp pháp. Trường hợp việc mua bán đã hoàn thành, bên bán và đối tượng đã ký hợp đồng bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, đã đăng ký theo quy định pháp luật, thì hợp đồng mua bán có hiệu lực pháp luật, bên bán được xác định là người thứ ba ngay tình theo quy định của Bộ luật Dân sự và pháp luật phải bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình.

Theo Khoản 1 Điều 62 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra. Căn cứ theo quy định này, bị hại là Ngân hàng.

Như vậy, nếu bên bán xe đã hoàn tất thủ tục mua bán hợp pháp, chiếc xe sẽ bị cơ quan chức năng thu giữ, bị phát mãi để thu tiền trả lại cho Ngân hàng.

Trường hợp hai bên chưa ký hợp đồng bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực thì giao dịch này chưa hợp pháp. Bên bán có thể yêu cầu nhận lại chiếc xe này và nộp lại số tiền đã nhận của Nguyễn Văn Nam để trả lại cho phía người bị hại là ngân hàng.

Trường hợp có tranh chấp về tài sản giữa đối tượng và bên bán thì sau này khi xét xử, Tòa án sẽ tách ra một vụ kiện dân sự khác để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Câu hỏi: Vậy còn người bạn mà Nam quen từ trước, có tên H, 24 tuổi, là người đã chở Nam từ Hải Phòng lên Vĩnh Phúc thuê phòng nghỉ, sau đó lại chở về Hải Phòng để thực hiện hành vi cướp ở ngân hàng có bị liên đới không? Thưa Luật sư.

Trả lời:

Trong trường hợp này, nếu H biết về việc Nguyễn Văn Nam cướp tiền ngân hàng mà vẫn đồng ý chở Nguyễn Văn Nam thì H có thể bị truy tố về tội “Cướp tài sản” với vai trò là người giúp sức. Tùy vào tính chất và mức độ tham gia phạm tội, đồng phạm sẽ nhận hình phạt tương ứng. Còn trường hợp H không biết bạn mình phạm tội thì sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự.