Trước hết, Luật Doanh nghiệp 2005 không có khái niệm “Luật chuyên ngành” như Luật Doanh nghiệp 1999. Vì vậy, theo khái niệm các “quy định khác của pháp luật” thì Luật chuyên ngành được xem như các quy định pháp luật khác.
Theo Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “ Điều 3 :
Áp dụng Luật doanh nghiệp , điều ước quốc tế và các luật có liên quan
1. Việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh ng hiệ p thuộc mọi thành phần kinh tế áp dụn g theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Trường hợp đặc thù liên quan đến việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp được quy định tại Luật khác thì áp dụng theo quy định của Luật đó.
3. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế”.
Trước hết, cần hiểu đây là sự khác nhau trên cùng một vấn đề liên quan đến việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của bốn loại hình doanh nghiệp nêu tại Điều 1 Luật Doanh nghiệp 2005. Về các vấn đề này, nội dung của Luật Doanh nghiệ p 2005 v à Lu ậ t chuyên ngành thường khác nhau trên hai điểm: thứ nhất là điều kiện thành lập doanh nghiệp, thứ hai là các quy định về quản lý nhà nước đối với việc kinh doanh ngành , nghề này. Trong trường hợp có sự khác nhau về cùng một vấn đề thì phải áp dụng theo quy định của Luật chuyê n ngành . Ví dụ các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh tín dụng thì việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động hoặc khi thực hiện các quy định về quản lý nhà nước thì chủ yếu phải theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng. Các doanh nghiệ p hoạt động kinh doanh khoáng sản thì phải tuân theo quy định về các loại giấy phép hoạt động khoáng sản được quy định tại Luật Khoáng sản.
Biên soạn
Luật gia Cao Bá Khoát
Luật sư Trần Hữu Huỳnh