Luật doanh nghiệp năm 2014 sẽ phát sinh hiệu lực vào 1/7/2015, Luật doanh nghiệp có rất nhiều điểm mới so với luật cũ, vậy những điểm mới này sẽ tác động đến hoạt động của doanh nghiệp thế nào?
Để trả lời các vấn đề này, luật sư Nguyễn Thanh Hà, chủ tịch SBLAW đã giành cho kênh VITV phần trả lời phỏng vấn về những nội dung mới của Luật doanh nghiệp năm 2014.
Chúng tôi trân trọng giới thiệu nội dung bài phỏng vấn:
Phóng viên: Luật doanh nghiệp 2014 có những điểm mới gì đáng chú ý?
Trả lời:
Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2014 tại kỳ họp ngày 26/11/2014. Luật DN năm 2014 có hiệu lực kể từ 01/7/2015 với 10 chương, 213 điều, tăng 41 điều so với Luật DN năm 2005, trong đó, chương IV quy định về Doanh nghiệp nhà nước gồm 22 điều là chương mới hoàn toàn so với Luật DN năm 2005. Điều 10 của Luật quy định về tiêu chí, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp xã hội cũng là một quy định hoàn toàn mới. Mục tiêu của Luật DN năm 2014 là tiếp tục tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Những điểm mới cơ bản của Luật DN năm 2014 có thể kể đến như sau:
1. Luật chỉ quy định những vấn đề chung nhất mang tính định hướng hoặc gợi mở về việc thành lập, quản lý, tổ chức lại, giải thể và các hoạt động có liên quan của doanh nghiệp. Luật để doanh nghiệp chủ động trong việc thỏa thuận giữa các chủ đầu tư để đưa ra quy định chi tiết cho doanh nghiệp mình trên cơ sở khung của pháp luật. Ví dụ: Luật cho phép Công ty TNHH, Công ty Cổ phần có quyền lựa chọn có một hoặc nhiều người đại diện theo pháp luật; cho phép Công ty cổ phần lựa chọn một trong hai mô hình tổ chức, quản lý; cho phép chọn cách thức bầu dồn phiếu hay không không bầu dồn phiếu … Luật cũng đã bỏ hẳn chế định quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, thay vào đó là một vài điều khoản ở chương tổ chức thực hiện. Với tư duy mở như vậy, doanh nghiệp sẽ được chủ động, sáng tạo khi lựa chọn hình thức tổ chức và quản trị của doanh nghiệp mình.
2. Về địa điểm họp và cách thức lưu trữ biên bản của cuộc họp, Luật cũng quy định thoáng hơn là: các thành viên tham gia họp không nhất thiết phải ngồi cùng 1 chỗ; hình thức lưu trữ có thể là ghi biên bản, hoặc ghi âm hoặc ghi và lưu trữ dưới hình thức điện tử khác. Đây là bước tiến bộ vượt bậc của Luật khi áp dụng công nghệ thông tin hiện đại vào vào hoạt động quản trị của doanh nghiệp. Hiệu suất và tiết kiệm thời gian hơn, cũng chính là động lực để doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả hơn.
3. Chính thức luật hóa quy định đã thực hiện trên thực tế nhiều năm qua là quy định trong Luật việc sử dụng mã số doanh nghiệp là mã số thuế.
4. Bãi bỏ quy định gây cản trở hoạt động của các chủ đầu tư là một người đã là Giám đốc, Tổng Giám đốc của một công ty cổ phần thì không được làm Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc của bất kỳ công ty nào khác. Bãi bỏ quy định mà thực tế cho thấy tính khả thi rất thấp trong nhiều năm áp dụng Luật Doanh nghiệp năm 2005 ví dụ như quy định về đăng ký danh sách cổ đông nắm giữ 5% vốn điều lệ.
5. Luật cũng quy định tăng cường quyền cho cổ đông hoặc nhóm cổ đông nhỏ bằng quy định chỉ cần sở hữu ít nhất 1% cổ phần phổ thông liên tục trong 6 tháng là đã có quyền khởi kiện hoặc nhân danh công ty để khởi kiện.
6. Quy định về Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là bước đột phá khi bỏ đi các nội dung: Ngành nghề kinh doanh, cổ đông sáng lập, Chi nhánh, Văn phòng Đại diện, Địa điểm kinh doanh. Điều này đã hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh mọi ngành nghề mà pháp luật không cấm theo quy định tại Hiến pháp. Doanh nghiệp được năng động và an toàn hơn khi thực hiện hoạt động kinh doanh không trái pháp luật.
7. Quy định về con dấu pháp nhân cũng là một quy định đột phá khi cho phép doanh nghiệp được tự quyết định về hình thức, số lượng và nội dung của con dấu. Chỉ phải thông báo mẫu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên cổng thông tin quốc gia về doanh nghiệp.
8. Quy định về việc hợp nhất, chia tách, sáp nhập mà không bắt buộc phải là những công ty cùng loại. Quy định này chắc chắn góp phần thúc đẩy hoạt động mua bán doanh nghiệp trong thời gian tới.
Phóng viên:Luật doanh nghiệp 2014 có những quy định gì mới về việc thành lập, giải thể hay chuyển đổi loại hình doanh nghiệp? (thủ tục hành chính trong những hoạt động trên có được cải cách theo hướng tốt không?)
Trả lời: – Thời gian xem xét hồ sơ ĐKKD và cấp Giấy chứng nhận ĐKKD được rút ngắn đáng kể, từ 10 ngày (LDN 2005) rút ngắn còn 3 ngày (LDN 2014). Việc rút ngắn như vậy đã đảm bảo thực hiện thủ tục thành lập được nhanh chóng, bên cạnh đó trong trường hợp doanh nghiệp bị từ chối do không đủ điều kiện cấp phép, các doanh nghiệp sẽ có thêm thời gian để tự hoàn thiện, bổ sung hồ sơ kịp thời.
– Có sự tách biệt về thủ tục thành lập doanh nghiệp và thủ tục đủ điều kiện đăng ký kinh doanh. Cụ thể là theo LDN 2005, ví dụ doanh nghiệp đăng ký ngành nghề DKKD về tư vấn du học, thì ngay tại thời điểm thành lập doanh nghiệp, doanh nghiệp đã phải đáp ứng điều kiện ký quỹ 500 triệu đồng để phục vụ cho hoạt động tư vấn du học. Tuy nhiên, hiện nay theo LDN 2014, doanh nghiệp có thể thành lập doanh nghiệp với bất kỳ ngành nghề nào (ngành nghề đảm bảo điều kiện không trong danh mục ngành nghề cấm kinh doanh), còn sau khi thành lập, nếu doanh nghiệp đáp ứng điều kiện ký quỹ 500 triệu, thì doanh nghiệp sẽ được phép hoạt động ngành nghề tư vấn du học này. Sự thay đổi này đã tạo cơ hội lớn cho các doanh nghiệp về khả năng gia nhập thị trường.
– Bãi bỏ quy định về cấp mã ngành nghề khi thực hiện thủ tục thành lập doanh nghiệp. Theo LDN 2005, doanh nghiệp chỉ được kinh doanh trong phạm vi ngành nghề mà doanh nghiệp đã đăng ký trong Giấy chứng nhận DKKD. Điều này đã dẫn đến thực tế rằng, khi doanh nghiệp muốn mở rộng ngành nghề, phải làm thủ tục thay đổi DKKD rất nhiều lần, bên cạnh đó đối với những ngành nghề không có mã ngành nghề trong QĐ 337 thì phải tìm được quy định rõ ràng trong pháp luật chuyên ngành, thì mới được phép đăng ký ngành nghề đó trong Giấy ĐKKD, việc này gây mất thời gian và tốn chi phí cho doanh nghiệp. Nay LDN 2014 đã bãi bỏ quy định này, thay vào đó doanh nghiệp được cho phép kinh doanh tất cả ngành nghề (pháp luật không cấm), do vậy doanh nghiệp đã tự chủ hơn trong hoạt động kinh doanh của mình.
– Cải cách quan trọng về con dấu doanh nghiệp. Trước đây trong luật DN 2005, doanh nghiệp có nghĩa vụ đăng ký xin cấp con dấu và giấy chứng nhận mẫu dấu trong vòng 04 ngày làm việc kể từ ngày được cấp DKKD. Trong trường hợp, doanh nghiệp có thay đổi về tên công ty, địa chỉ trụ sở, thì con dấu phải được cấp đổi, điều này gây tốn kém về chi phí và thời gian. Đến nay LDN 2014 có quy định, doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng, nội dung con dấu của doanh nghiệp, và có nghĩa vụ thông báo với cơ quan DKDN. Sự thay đổi này là phù hợp, tăng khả năng tự chủ cho doanh nghiệp.
Tóm lại, thủ tục hành chính trong những hoạt động nêu trên, theo đánh giá của tôi là theo hướng tốt hơn trước đây, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp.
Phóng viên: Hiện nay, cải cách thủ tục hành chính đang là vấn đề rất được ưu tiên và quan tâm, vậy, doanh nghiệp có gặp phải khó khăn gì không trong các thủ tục hành chính khi áp dụng luật doanh nghiệp 2014?
Trả lời: Bên cạnh những thuận lợi như đã vừa nêu trên, vẫn còn những vướng mắc và khó khăn thực tế khi triển khai thực hiện Luật DN năm 2014, đơn cử như sau:
– Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào doanh nghiệp, cụ thể như là việc biên bản cuộc họp đại hội đồng cổ đông trong công ty cổ phần có thể ghi âm hoặc lưu trữ dưới hình thức điện tử khác, theo đó trong quá trình có tranh chấp xảy ra, các doanh nghiệp cần tốn thêm chi phí, thời gian để giám định việc ghi âm để xác định tính chính xác của nội dung biên bản.
– Việc quy định công ty TNHH hoặc CTCP có thể có từ một hoặc người đại diện theo pháp luật, sẽ khó khăn cho doanh nghiệp khi nộp hồ sơ. Vì đôi khi mỗi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp sẽ chỉ có thẩm quyền cụ thể đối với từng lĩnh vực căn cứ theo điều lệ công ty đó, theo đó, cơ quan hành chính sẽ yêu cầu chứng minh thẩm quyền người ký kết văn bản trong quá trình nộp hồ sơ văn bản. Thủ tục sẽ có thể bị kéo dài nếu doanh nghiệp không có sự chuẩn bị trước những giấy tờ cần thiết theo yêu cầu.
Mặc dù vậy, theo đánh giá của tôi, những khó khăn nêu trên hoàn toàn có thể khắc phục được bằng sự chuẩn bị chu đáo và kỹ lưỡng của doanh nghiệp khi quyết định thực hiện hoạt động kinh doanh.
Phóng viên: Pháp luật doanh nghiệp hiện nay cho phép doanh nghiệp tư nhân được chuyển đổi sang công ty TNHH có từ 2 thành viên trở lên nhưng lại không cho phép doanh nghiệp tư nhân chuyển đổi thành công ty cổ phần. Vậy khó khăn khi chuyển đổi hai loại hình này là gì?
Trả lời: Theo tôi hiểu, câu hỏi của bạn đề cập đến trường hợp khó khăn khi doanh nghiệp muốn chuyển đổi từ doanh nghiệp tư nhân sang công ty cổ phần.
Khó khăn gặp phải là Luật DN 2014 chưa quy định cho việc chuyển trực tiếp từ DN tư nhân sang công ty cổ phần.
Vì vậy, doanh nghiệp phải đi đường vòng thành 2 bước, bước 1 chuyển thành công ty TNHH 2 thành viên, sau đó lại chuyển tiếp bước 2 là từ công ty TNHH 2 thành viên thành công ty cổ phần.
Phóng viên: Vậy có nên cho phép chuyển đổi từ DN tư nhân thành DN cổ phần không, vì DN tư nhân chính là công ty TNHH 1 thành viên?
Trả lời: Theo tôi thì Luật nên cho phép chuyển đổi từ DN tư nhân thành công ty cổ phần hoặc bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào, vì dù luật không quy định cụ thể và trực tiếp thì doanh nghiệp đi đường vòng cũng vẫn đạt được mục tiêu cuối cùng là chuyển đổi được sang loại hình doanh nghiệp mà nhà đầu tư mong muốn. Cụ thể: chuyển đổi thành công ty TNHH 2 thành viên, rồi lại chuyển đổi tiếp thành công ty cổ phần.
Phóng viên: Quy định như hiện nay thì doanh nghiệp tư nhân muốn chuyển thành công ty cổ phần thì phải thực hiện thủ tục chuyển đổi thành công ty TNHH hai thành viên trở lên trước đó hoặc giải thể doanh nghiệp tư nhân rồi sau đó thành lập công ty cổ phần mới. Việc quy định chuyển đổi bằng con đường vòng mà không phải trực tiếp làm cho doanh nghiệp tốn nhiều thời gian và gặp nhiều thủ tục hành chính rườm rà không?
Trả lời: Như vừa phân tích ở trên, đi đường vòng thì doanh nghiệp vẫn đạt được mục tiêu chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, nên rõ ràng việc không quy định doanh nghiệp tư nhân được chuyển đổi trực tiếp dẫn đến việc đi đường vòng sẽ mất thời gian và chi phí của doanh nghiệp nhiều hơn.
Phóng viên: Luật sư có lời khuyên, hoặc lưu ý gì cho doanh nghiệp khi muốn chuyển đổi loại hình doanh nghiệp?
Trả lời: – Cần phải hiểu đúng hiện trạng doanh nghiệp của mình trước khi chuyển đổi, tức là xác định loại hình đang tồn tại của doanh nghiệp mình, lựa chọn loại hình doanh nghiệp mình muốn chuyển đổi sang.
– Cần phải hiểu đúng hiện trạng doanh nghiệp của mình trước khi chuyển đổi, tức là xác định loại hình đang tồn tại của doanh nghiệp mình, lựa chọn loại hình doanh nghiệp mình muốn chuyển đổi sang.
– Tìm hiểu quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư trong loại hình doanh nghiệp mới sẽ chuyển đổi để có sự chuẩn bị trước cũng như ra quyết định cho việc chuyển đổi. Việc tìm hiểu này có thể tự mình tìm hiểu hoặc yêu cầu luật sư tư vấn và đề xuất giải pháp hợp lý nhất.
o Ví dụ, từ công ty TNHH mà muốn chuyển đổi thành Công ty cổ phần, thì phải biết quy định cứng của luật về số lượng cổ đông sáng lập tối thiểu phải là 3 cổ đông. Từ việc nắm được quy định cứng của luật như vậy để chuẩn bị trước.
o Hay ví dụ như đang là doanh nghiệp tư nhân mà muốn chuyển đổi thành công ty cổ phần thì phải nắm được luật quy định là không thể chuyển đổi trực tiếp được mà phải đi đường vòng, theo đó bước 1 là chuyển thành công ty TNHH 2 thành viên, rồi bước 2 chuyển tiếp thành công ty cổ phần.
– Theo quy định tại thông tư 80/2012/TT-BTC: “Mã số thuế của doanh nghiệp sau khi chuyển đổi loại hình doanh nghiệp được giữ nguyên” nhưng do tên, loại hình doanh nghiệp, đại diện hợp pháp của doanh nghiệp… thay đổi nên phải phát hành lại hoá đơn. Đây cũng là 1 điểm mà doanh nghiệp phải xử lý xong trước khi chuyển đổi loại hình.
– Mặt khác, bộ nhận diện thương hiệu của doanh nghiệp cũng sẽ phải thay đổi theo. Điều này kéo theo chi phí và thời gian để chuẩn bị các điều kiện về mặt thực tế, cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải biết trước để chuẩn bị.