Luật sư Nguyễn Thanh Hà trả lời VTC về vấn đề di tích bị xâm hại

0
408

Trả lời phóng viên VTC, đài truyền hình kỹ thuật số về vấn đề Chùa Thanh Nhàn đã được Công nhận Di tích lịch sử văn hóa và đang bị xâm hại, Luật sư Nguyễn Thanh hà đã nêu quan điểm như sau:

Việc quản lý di sản văn hóa thực hiện theo quy định của Luật Di sản văn hóa năm 2001 và được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Theo quy định tại khoản 5 Điều 14 và khoản 2,5 Điều 16 Luật Di sản văn hóa thì nhà Chùa có quyền: “Ngăn chặn hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ngăn chặn, xử lý kịp thời những hành vi phá hoại, chiếm đoạt, sử dụng trái phép di sản văn hoá; Thực hiện các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời các hành vi xâm hại di sản văn hoá; Thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”.

Mặt khác theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật di sản văn hóa có quy định: “Tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu hoặc được giao quản lý, sử dụng di tích có trách nhiệm bảo vệ di tích đó; trong trường hợp phát hiện di tích bị lấn chiếm, huỷ hoại hoặc có nguy cơ bị huỷ hoại phải kịp thời có biện pháp ngăn chặn và thông báo cho cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp, Uỷ ban nhân dân địa phương hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền vềvăn hoá – thông tin nơi gần nhất”.

Nếu nhà chùa có các tài liệu chứng mình quyền sử dụng đất theo quy định luật đất đai thì sẽ thực hiện việc khiếu nại, khởi kiện theo quy định của Luật đất đai và Bộ luật tố tụng dân sự. Còn nếu chưa có các tài liệu thì đề nghị Cơ quan quản lý văn hóa thực hiện việc xác định khu vực bảo vệ di tích.

 

Luật sư Nguyễn Thanh Hà trả lời phóng viên VTC

 Luật sư Nguyễn Thanh Hà trả lời phóng viên VTC

Theo quy định tại Điều 32 Luật Di sản văn hóa có quy định về khu vực bảo vệ di tích. Theo quy định tại Điều 32 và Điều 14 nghị định 98/2010/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều luật di sản văn hóa và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật di sản văn hóa về nguyên tắc xác định phạm vi và cắm mốc giới các khu vực bảo vệ di tích thì:

1. Việc xác định khu vực bảo vệ I của di tích quy định tại khoản 13 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa được thực hiện theo các nguyên tắc sau:

a) Đối với di tích là công trình xây dựng, địa điểm gắn với các sự kiện lịch sử, thân thế và sự nghiệp của danh nhân thì phạm vi khu vực bảo vệ I phải bao gồm các khu vực có công trình xây dựng, địa điểm ghi dấu những diễn biến tiêu biểu của sự kiện lịch sử, những công trình lưu niệm gắn với danh nhân liên quan đến di tích đó;

b) Đối với di tích là địa điểm khảo cổ thì phạm vi khu vực bảo vệ I phải bao gồm khu vực đã phát hiện các di tích, di vật, địa hình, cảnh quan có liên quan trực tiếp tới môi trường sinh sống của chủ thể đã tạo nên địa điểm khảo cổ đó;

c) Đối với di tích là quần thể các công trình kiến trúc nghệ thuật hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ thì phạm vi khu vực bảo vệ I phải bao gồm các khu vực có công trình kiến trúc, sân, vườn, ao, hồ và cả các yếu tố khác liên quan đến di tích đó;

d) Đối với danh lam thắng cảnh thì phạm vi khu vực bảo vệ I phải đảm bảo cho việc giữ gìn sự toàn vẹn của cảnh quan thiên nhiên, địa hình, địa mạo và các yếu tố địa lý khác chứa đựng sự đa dạng sinh học và hệ sinh thái đặc thù, các dấu tích vật chất về các giai đoạn phát triển của trái đất hoặc các công trình kiến trúc liên quan đến danh lam thắng cảnh đó.

Đối với di tích gồm nhiều công trình xây dựng, địa điểm phân bố trên phạm vi rộng thì phải xác định khu vực bảo vệ I cho từng công trình xây dựng, địa điểm.

2. Khu vực bảo vệ II là khu vực bao quanh hoặc tiếp giáp với khu vực bảo vệ I để bảo vệ cảnh quan và môi trường – sinh thái của di tích và là khu vực được phép xây dựng các công trình phục vụ việc bảo vệ và phát huy giá trị của di tích.

Việc xác định di tích không có khu vực bảo vệ II được áp dụng trong trường hợp di tích đó nằm trong khu vực dân cư hoặc liền kề các công trình xây dựng mà không thể di dời.

3. Việc cắm mốc giới các khu vực bảo vệ di tích phải bảo đảm các nguyên tắc sau:

a) Phân định rõ ranh giới các khu vực bảo vệ di tích với khu vực tiếp giáp trên thực địa theo biên bản và bản đồ khoanh vùng các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ xếp hạng di tích;

b) Cột mốc phải được làm bằng chất liệu bền vững và đặt ở vị trí dễ nhận biết;

c) Hình dáng, màu sắc, kích thước cột mốc phải phù hợp với môi trường, cảnh quan của di tích và không làm ảnh hưởng đến yếu tố gốc cấu thành di tích.

Vậy Nhà Chùa gửi đơn thông báo đến Sở văn hóa thông tin Hà Nội phản ánh sự việc và yêu cầu xác định khu vực bảo vệ di tích. Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội chịu trách nhiệm tổ chức việc cắm mốc giới.