Luật sư Nguyễn Thanh Hà – Chủ tịch Công ty Luật SB LAW trả lời trên Chương trình Bạn và Pháp luật về Những vấn đề pháp lý liên quan đến giải quyết, bồi thường các trường hợp bị oan sai. Dưới đây là nội dung chi tiết của bài phỏng vấn:
Câu 1:
Thưa luật sư, năm 1976 ông Trần Văn Thêm được ra tù bởi đã tìm ra hung thủ của vụ án, nhưng có một điều rất lạ là sau khi ra tù thì ông Thêm lại không tìm ra một loại giấy tờ nào để minh oan cho ông Thêm là người vô tội. Theo luật sư chúng ta nên hiểu vấn đề này như thế nào?
Luật sư trả lời:
Trong vụ ông Trần Văn Thêm, quan điểm và chứng cứ buộc tội của cơ quan tố tụng Vĩnh Phú có nhiều mâu thuẫn, sai sót cực kỳ nghiêm trọng, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Việc minh oan cho ông Thêm lẽ ra phải được tiến hành từ khi hung thủ của vụ án đầu thú chứ không phải kéo dài đến tận bây giờ. Việc kéo dài thân phận “bị cáo” là vi phạm nghiêm trọng.
Qua quá trình điều tra không có đủ chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị can nên không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự. Bị can cũng liên tục phủ nhận hành vi phạm tội của mình, chống án, nhưng không hiểu vì sao bản án lại vẫn được tuyên. Cuộc sống của một con người đã bị hủy hoại trước những phán xét không có trách nhiệm của cơ quan tố tụng.
Vụ án ông Trần Văn Thêm có rất nhiều điểm tương đồng với vụ án người tù thế kỷ Huỳnh Văn Nén vừa qua. Các chứng cứ liên quan hầu hết đều bị thất lạc một thời gian dài, khi được thả về, ông Thêm không được cấp bất cứ loại giấy tờ gì, ngoài tờ giấy chứng nhận bị thương để miễn lao động trở về địa phương do Bộ Công an cấp. Điều này thể hiện sự thiếu trách nhiệm của cơ quan tố tụng.
Mặt khác, cũng có thể vì chiến tranh, chia tách địa giới hành chính tỉnh nên tài liệu bị thất lạc.
Câu 2:
Trường hợp của ông Trần Văn Thêm là rất đặc biệt, nhưng trong luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước không thấy đề cập đến những trường hợp bị kết án tử hình mà phải chịu oan. Vậy chúng ta có nên bổ sung vấn đề này vào luật không thưa luật sư?
Luật sư trả lời:
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 đã quy định về phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự trong trường hợp bị kết án tử hình như sau:
“2. Người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
…
5. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm tội bị kết án tử hình và tổng hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của những tội mà người đó phải chấp hành”.
Tuy nhiên, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước lại chưa quy định trách nhiệm bồi thường trong trường hợp người bị kết án tử hình không thực hiện hành vi phạm tội mà không được minh oan.
Thiết nghĩ, nên bổ sung quy định này vào Luật (sửa đổi) để nâng cao trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền.
Câu 3:
Vậy làm thế nào để hạn chế, để tránh được án oan sai trong tố tụng hình sự và vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung và trong việc hạn chế án oan sai nói riêng là gì thưa ông?
Luật sư trả lời:
1.Qua các vụ án oan, một đặc điểm chung rất dễ nhận thấy là luôn có những vi phạm tố tụng nghiêm trọng, kết luận vụ án thường mang tính áp đặt chủ quan của người tiến hành tố tụng, có dấu hiệu mớm cung, bức cung, nhục hình biến tướng trong quá trình điều tra. Tuy nhiên, những hành vi vi phạm này hầu như không chứng minh được hoặc không được hội đồng xét xử xem xét.
Để hạn chế và tránh việc oan sai trong tố tụng hình sự thì cần phải áp dụng đồng thời nhiều giải pháp:
Thứ nhất, trong công tác điều tra: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi rõ: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Điều này có nghĩa rằng: Trước khi bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì bị can, bị cáo đều được coi là “người vô tội”.
Thực tế hiện nay trong quá trình điều tra, điều tra viên phải chịu rất nhiều sức ép có thể vì quá đặt nặng trách nhiệm “chứng minh tội phạm” và tâm lý lo sợ “bỏ lọt tội phạm” mà khi phát hiện tội phạm, xác định đối tượng tình nghi, nhiều điều tra viên chỉ đi theo hướng “buộc tội” và bức cung, ép cung khi nghi phạm chối tội, sẽ dẫn đến việc oan sai.
- Do đó, điều tra viên phải áp dụng triệt để nguyên tắc “Suy đoán vô tội”, đây là một trong những giải pháp hữu hiệu để tránh oan sai trong tố tụng hình sự.
Thứ hai, đối với kiểm sát viên cần phải chủ động phát hiện các vi phạm trong hoạt động điều tra, xét xử để kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu khắc phục, sửa chữa.
Hoạt động công tố phải thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử hình sự và chất lượng tranh tụng tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp… Tuy nhiên, có nhiều vụ án khi Viện Kiểm sát đã đưa ra các yêu cầu điều tra, nhưng một số cơ quan điều tra không thực hiện; nhiều vụ án chỉ có lời nhận tội của bị can, bị cáo mà không có tài liệu, chứng cứ khác để đối chứng nhưng cơ quan tiến hành tố tụng vẫn sử dụng để buộc tội vì cho rằng “bản thân bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình”.
Thứ ba, khi xét xử, các tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan. Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, người làm chứng, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Thứ tư, phải tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành:
Lãnh đạo đơn vị phải chỉ đạo kịp thời, nhất là những vụ án phức tạp, tùy theo tính chất của từng vụ án để phân công Kiểm sát viên cho phù hợp, tăng cường công tác kiểm tra phát hiện sai sót để chấn chỉnh kịp thời.
Đề cao trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể đối với các vụ việc oan, sai. Xử lý nghiêm minh đối với người mắc sai phạm, nhất là đối với trường hợp xảy ra oan, sai nghiêm trọng. Đơn vị để xảy ra oan, sai thì thủ trưởng đơn vị đó chịu trách nhiệm; kiên quyết không xét các danh hiệu thi đua đối với cá nhân, đơn vị có án oan.
2. Vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung và trong việc hạn chế án oan sai nói riêng
Theo tôi, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến oan sai là hiện tượng ép cung, bức cung các đối tượng bị tình nghi phạm tội của người tiến hành tố tụng do đó cần phải có người đối trọng về trách nhiệm. Điều tra viên, kiểm sát viên giữ nhiệm vụ buộc tội, còn luật sư bào chữa là người gỡ tội. Vì thế, sự tham gia của luật sư với vai trò đối trọng sẽ làm giảm tính chất “buộc tội” trong hỏi cung nói riêng và quá trình tố tụng hình sự
nói chung. Luật sư bào chữa cũng giữ vai trò “giám sát” việc tuân thủ các nguyên tắc, quy định của pháp luật tố tụng hình sự của những người tiến hành tố tụng, làm cho quá trình được khách quan, công bằng hơn và tất nhiên sẽ hạn chế việc ép cung, bức cung, từ đó sẽ giảm được án oan sai.
Trong các vụ án oan sai, thường là vai trò của luật sư chưa được khẳng định đúng mức. Luật sư chưa được tham gia đầy đủ ngay từ đầu quá trình tố tụng. Các ý kiến bào chữa chưa được các cơ quan tiến hành tố tụng quan tâm đúng mức.
Pháp luật tố tụng hình sự ghi nhận luật sư có quyền tham gia các buổi hỏi cung thân chủ của mình nhưng cần phải có sự đồng ý của điều tra viên hoặc kiểm sát viên. Quy định này vô hình trung làm cho việc tham gia của luật sư chỉ còn là “hình thức”, không còn ý nghĩa. Do đó, thiết nghĩ, một trong những nhiệm vụ của cải cách tư pháp là phải nâng cao vai trò, vị trí của luật sư trong việc tham gia tố tụng.
Câu 4:
Hiện nay trong việc phúc thẩm, yêu cầu minh oan cũng như giải quyết bồi thường với người bị kết án oan thì khó khăn, bất cập nhất là gì, thưa luật sư?
Luật sư trả lời:
Một số khó khăn, bất cập trong việc phúc thẩm, yêu cầu minh oan và giải quyết bồi thường với người bị kết án oan:
Thứ nhất, pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự còn một số tồn tại. Đơn cử như: Quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước về trách nhiệm hoàn trả và trách nhiệm kỷ luật đối với người thi hành công vụ, cũng như trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan trong hoạt động tố tụng hình sự còn chưa được cụ thể, chặt chẽ, dẫn tới việc xem xét trách nhiệm hoàn trả, xử lý kỷ luật trên thực tế chưa được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ. Mức hoàn trả theo quy định của pháp luật cũng chưa đủ sức răn đe đối với người thi hành công vụ, để từ đó góp phần nâng cao trách nhiệm công vụ, hạn chế việc phát sinh bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự.
Thứ hai, nhiều người dân sau khi được minh oan còn có tâm lý e ngại thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình. Tâm lý e ngại này, một phần xuất phát từ việc người dân cho rằng, cơ quan đã gây ra oan sai cho mình có “quyền lực”, không bình đẳng với mình sẽ không xem xét quyền lợi cho mình thỏa đáng, thậm chí có có thể gây khó khăn, phiền hà cho mình. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, người bị thiệt hại gặp khó khăn trong việc yêu cầu bồi thường do không xác định được cơ quan có trách nhiệm bồi thường hoặc khó khăn trong việc thu thập văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, trong việc tìm tài liệu, chứng cứ chứng minh thiệt hại. Việc tìm các giấy tờ làm căn cứ chứng minh thiệt hại như: Biên lai khám chữa bệnh, hóa đơn mua thuốc, … là rất khó.
Thứ ba, vẫn còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giải quyết bồi thường giữa các cơ quan tố tụng, làm cho vụ việc chậm được thụ lý và việc giải quyết bị kéo dài vượt quá thời hạn theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước gây bức xúc cho người bị thiệt hại và cả dư luận xã hội.
Thứ tư, việc thương lượng giữa người bị thiệt hại với cơ quan có trách nhiệm bồi thường khó đạt được đồng thuận do tâm lý không tin tưởng vào cơ quan có trách nhiệm bồi thường vì đây chính là cơ quan đã gây ra oan, sai cho người bị thiệt hại.
Thứ năm, việc thẩm định hồ sơ cấp phát kinh phí chi trả tiền bồi thường còn chậm so với quy định của pháp luật, gây khó khăn cho cơ quan có trách nhiệm bồi thường và gây bức xúc cho người bị thiệt hại.
Thứ sáu, việc thực hiện cung cấp thông tin hoặc phản hồi các vấn đề báo chí đăng tải về công tác bồi thường nhà nước trong tố tụng hình sự chưa được quan tâm đúng mức, không chủ động cung cấp thông tin, do đó, chưa định hướng được dư luận xã hội trong việc xử lý, giải quyết đối với một số vụ việc phức tạp, nhạy cảm.
Câu 5:
Bạn Nguyễn Thị Thoan ở Nam Định đặt câu hỏi rằng:“Trong mấy chục năm người ta ngồi tù, gia đình khốn đốn thì lấy đâu ra chứng từ để chứng minh, vậy sửa Luật có giải quyết được thực tế này không?”
Xin mời luật sư Nguyễn Thanh Hà giải đáp giúp bạn Nguyễn Thị Thoan
Luật sư trả lời:
Điều 9 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 có quy định:
“2. Người bị thiệt hại có nghĩa vụ sau đây:
- a) Cung cấp kịp thời, đầy đủ và trung thực tài liệu, chứng cứ có liên quan đến yêu cầu giải quyết bồi thường;
- b) Chứng minh về thiệt hại thực tế đã xảy ra”.
Theo quy định trên để được bồi thường thiệt hại, người bị oan sai phải chứng minh được thiệt hại, đòi hỏi phải có hóa đơn chứng từ, … “Trong mấy chục năm người ta ngồi tù, gia đình khốn đốn thì lấy đâu ra chứng từ để chứng minh, vậy sửa Luật có giải quyết được thực tế này không?
Dự thảo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 3 vừa qua có nhiều điểm mới. Để tạo thuận lợi cho người yêu cầu bồi thường, đồng thời giải quyết những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn công tác giải quyết bồi thường đối với các trường hợp khó chứng minh được thiệt hại do thời gian diễn ra quá lâu, Luật đã bổ sung quy định cụ thể về các thiệt hại, chi phí được bồi thường và việc xác định thiệt hại, chi phí, trong đó quy định rõ để xác định mức bồi thường ngay trong Luật này trường hợp người yêu cầu bồi thường không xuất trình được hóa đơn, chứng từ hợp pháp đối với một số chi phí được bồi thường.
Đơn cử như: Chi phí thuê phòng nghỉ, chi phí đi lại, in ấn tài liệu được thanh toán theo hóa đơn, chứng từ hợp pháp với giá trị được xác định tại thời điểm quy định tại khoản 2 Điều 22 của Luật này nhưng tối đa không quá mức quy định của Bộ Tài chính về chế độ công tác phí đối với cán bộ, công chức; chế độ chi tổ chức hội nghị đối với cơ quan nhà nước.
Trường hợp người yêu cầu bồi thường không xuất trình được hóa đơn, chứng từ hợp pháp đối với các chi phí quy định thì chi phí được bồi thường không quá 6 tháng lương cơ sở tại thời điểm quy định ở khoản 2 Điều 22 của Luật này cho 1 năm tính từ thời điểm bắt đầu khiếu nại hoặc tố cáo hoặc tham gia tố tụng cho đến ngày có văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường.
Câu 6:
Sau khi chính thức được minh oan thì người bị oan và người thân của họ cần phải tiến hành thêm những thủ tục như thế nào để nhận được số tiền đền bù oan sai. Đây là nội dung câu hỏi mà bạn Hoàng Hải ở Bắc Ninh gửi cho chúng tôi. Xin mời luật sư Nguyễn Thanh Hà
Luật sư trả lời:
Theo quy định tại Điều 34 của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 thì:
– Khi nhận được bản án, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự xác định thuộc trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật này thì người bị thiệt hại gửi đơn yêu cầu bồi thường đến cơ quan có trách nhiệm bồi thường theo quy định sau đây:
+ Người bị thiệt hại do quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quy định tại Điều 30 của Luật này gửi đơn yêu cầu bồi thường đến cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã ra quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố bị can;
+ Người bị thiệt hại do quyết định của Viện kiểm sát quy định tại Điều 31 của Luật này gửi đơn yêu cầu bồi thường đến Viện kiểm sát đã ra quyết định đó;
+Người bị thiệt hại do bản án, quyết định của Toà án có thẩm quyền quy định tại Điều 32 của Luật này gửi đơn yêu cầu bồi thường đến Toà án đã ra bản án, quyết định đó.
– Đơn yêu cầu bồi thường trong hoạt động tố tụng hình sự quy định tại khoản 1 Điều này có các nội dung chính sau đây:
+ Họ và tên, địa chỉ của người yêu cầu bồi thường thiệt hại;
+ Lý do yêu cầu bồi thường;
+ Thiệt hại và mức yêu cầu bồi thường.
Lưu ý: Kèm theo đơn yêu cầu bồi thường phải có bản án, quyết định xác định người đó thuộc một trong các trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật này và tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc yêu cầu bồi thường.
Theo quy định trên, sau khi chính thức được các cơ quan liên ngành tố tụng công khai xin lỗi và chính thức được minh oan thì người bị oan cũng như người thân cần phải làm các thủ tục theo quy định của Luật này để được bồi thường thiệt hại do bị oan sai. Cụ thể, người bị oan và gia đình phải liên hệ với các cơ quan chức năng có thẩm quyền và phải gửi hồ sơ để yêu cầu cơ quan chức năng có thẩm quyền bồi thường. Trong trường hợp này, người bị oan và gia đình phải có đơn yêu cầu về bồi thường thiệt hại và bản sao, hoặc bản chính quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc công nhận oan sai.
Câu 7:
Ông Trần Văn Thêm đã bị kết án và ngồi tù từ năm 1970- đến năm 1976 thì được tha vì hung thủ chính thức đã ra đầu thú. Tuy nhiên ông đã mang án oan suốt 43 năm qua. Bà Nguyễn Hồng Phượng, ở Châu Thành, tỉnh Đồng Nai có hỏi: luật sư có thể cho biết vào thời điểm bắt được hung thủ chính thức thì cơ quan chức năng phải làm những thủ tục như thế nào đối với người bị oan?
Luật sư trả lời:
Vâng, xin cảm ơn câu hỏi của bác Nguyễn Hồng Phượng. Về vấn đề này tôi xin trả lời như sau:
Đối với trường hợp như ông Trần Văn Thêm thì sau khi xác định được hung thủ, các cơ quan tiến hành tố tụng, cụ thể ở đây là cơ quan cảnh sát điều tra phải tiến hành điều tra ngay hung thủ đã bắt được hoặc ra tự thú để xem xét hành vi, các dấu hiệu tội phạm và cũng cần xác định rõ là ông Thêm có liên quan đến vụ án hay không, có phải là hung thủ của vụ án hay không để từ đó xác định nếu ông Thêm không có liên quan hoặc không phải là thủ phạm thì phải có các quyết định kịp thời như quyết định đình chỉ vụ án hoặc bị can đối với ông Trần Văn Thêm và xác định ông bị oan. Theo đó, Tòa án cũng phải thực hiện Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước như công khai xin lỗi trên các phương tiện truyền thông; giải quyết bồi thường oan sai.
Câu 8:
Còn những người có liên quan đến vụ án oan sai phải chịu trách nhiệm và bị xử lý như thế nào trước pháp luật?
Luật sư trả lời:
Điều 56 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 có quy định:
“1. Người thi hành công vụ có lỗi gây ra thiệt hại có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
- Người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây ra thiệt hại quy định tại Điều 26 của Luật này không phải chịu trách nhiệm hoàn trả.
- Người thi hành công vụ ngoài việc phải hoàn trả khoản tiền quy định tại khoản 1 Điều này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm còn phải bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, sau vụ án oan sai cần phải xem xét lại trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức đã gây ra oan sai này. Để xác định được mức xử lý đối với các cá nhân tổ chức thì các cơ quan có thẩm quyền phải vào cuộc để tiến hành điều tra xem xét, dựa trên tính chất mức độ cũng như hậu quả thì từ đó mới đưa ra được hình thức xử lý cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức có liên quan.
Câu 9:
Câu cuối cùng mà chúng tôi nhận được từ nhiều thính giả có chung nội dung: Qua theo dõi, thì vai trò của luật sư trong các vụ án oan sai rất quan trọng, nhưng trong giai đoạn tố tụng luật sư vẫn còn một rào cản như không gặp được bị can, bị cáo, không sao chụp được hồ sơ. Theo luật sư thì làm thế nào để tháo gỡ được rào cản này?
Luật sư trả lời:
Có thể thấy vai trò của luật sư trong các vụ án oan sai đều ở thời điểm mà người bị oan đang phải “chấp hành án”, có nghĩa những giai đoạn đầu của tố tụng, luật sư chưa thực sự được nhìn nhận và tôn trọng tương xứng với vai trò trong việc phòng, chống án oan sai.
Để tháo gỡ được rào cản này, thì:
Thứ nhất, cần thay đổi cách nhìn nhận “tích cực, đúng đắn” về vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng của các cơ quan và người tiến hành tố tụng. Luật sư và người tiến hành tố tụng về thực chất là những đồng nghiệp của nhau, họ là những luật gia, người làm công tác pháp luật, người thực thi pháp luật, tuy cương vị và tư cách tố tụng mỗi người mỗi lúc có khác nhau. Phải nhận thấy rằng, quan hệ giữa luật sư với người tiến hành tố tụng là quan hệ bình đẳng, tôn trọng vì công lý nên luôn phụ thuộc và tương hỗ nhau trong hoạt động tư pháp.
Thứ hai, xét xử là khâu quyết định, cần mở rộng tranh tụng tại tòa, làm tốt công tác xác minh chứng cứ, cần “lắng nghe” người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự trình bày quan điểm, không nên thiên lệch về buộc tội.
Thứ ba, cần tiếp tục nghiên cứu kết hợp với kế thừa có chọn lọc nền văn minh pháp lý các nước tiên tiến trên thế giới để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, đặc biệt là pháp luật tố tụng với trọng tâm bảo đảm quyền con người, quyền công dân thông qua việc bảo đảm và nâng cao vai trò, vị thế của luật sư trong hoạt động tố tụng.