Xử lý phá sản TCTD theo Luật phá sản 2014

0
555

1. Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với TCTD

Luật Phá sản 2014 đã khắc phục bất cập trước đây, quy định rõ hơn về việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với TCTD:

Thứ nhất, về thời điểm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

Luật phá sản 2014 quy định rõ việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với TCTD chỉ thực hiện sau khi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) có một trong những văn bản sau đây và TCTD vẫn mất khả năng thanh toán:

–         Văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt,

–          Văn bản chấm dứt áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán

–          Văn bản không áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán.

Quy định này phù hợp với quy định của Luật các TCTD 2010. Thời điểm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với TCTD theo Luật phá sản 2014 đảm bảo việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản chỉ được thực hiện khi TCTD thực sự không còn khả năng phục hồi, tránh trường hợp TCTD bị nộp đơn yêu cầu phá sản khi chưa thực sự lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán, từ đó gây tâm lý hoang mang, ảnh hưởng tới hoạt động của TCTD đó nói riêng và hệ thống các TCTD nói chung.

Thứ hai, về đối tượng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

Luật phá sản 2014 quy định rõ những người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản TCTD, bao gồm:

– Chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà TCTD không thực hiện nghĩa vụ thanh toán;

– Người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ trả lương, các khoản nợ khác đến hạn đối với người lao động mà TCTD không thực hiện nghĩa vụ thanh toán;

–  Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 20% số cổ phần phổ thông trở lên trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi TCTD mất khả năng thanh toán; Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu dưới 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi TCTD mất khả năng thanh toán trong trường hợp Điều lệ TCTD quy định;

– Thành viên hoặc người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hợp tác xã mất khả năng thanh toán.

Luật phá sản 2014 cũng quy định rõ nghĩa vụ của TCTD nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản TCTD sau khi NHNN có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà TCTD vẫn mất khả năng thanh toán.

Ngoài ra, Luật phá sản 2014 cũng quy định trường hợp TCTD không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, NHNN có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với TCTD đó.

2. Thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với TCTD

Phù hợp với quy định về thời điểm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Luật phá sản 2014 quy định Tòa án nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản TCTD khi đã có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán của NHNN mà TCTD vẫn mất khả năng thanh toán.

3. Hoàn trả khoản vay đặc biệt

   Điều 151 Luật các TCTD 2010, TCTD lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả, đe dọa ổn định của hệ thống các TCTD, TCTD có nguy cơ mất khả năng chi trả do các sự cố nghiêm trọng khác thì được vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước và các TCTD khác. Khoản vay đặc biệt được ưu tiên hoàn trả trước tất cả các khoản nợ khác, kể cả các khoản nợ có tài sản bảo đảm của TCTD.

Trên cơ sở tính chất của khoản vay đặc biệt và phù hợp với quy định tại Luật các TCTD 2010, Luật phá sản 2014 đã quy định rõ khoản cho vay đặc biệt được hoàn trả cho Ngân hàng Nhà nước và TCTD khác trước khi thực hiện việc phân chia tài sản còn lại của TCTD phá sản theo quy định.

  4. Thứ tự phân chia tài sản

     Do đặc thù của hoạt động ngân hàng, thứ tự phân chia tài sản trong phá sản TCTD cũng khác với doanh nghiệp thông thường. Để bảo đảm quyền lợi cho đối tượng gửi tiền tại TCTD và tổ chức bảo hiểm tiền gửi đã chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền, Luật phá sản 2014 quy định các khoản tiền gửi, khoản tiền tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải trả cho người gửi tiền tại TCTD phá sản được ưu tiên chi trả trước các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ. Theo đó, thứ tự phân chia tài sản trong phá sản TCTD được thực hiện theo thứ tự như sau:

–         Chi phí phá sản;

–         Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký kết;

–         Khoản tiền gửi; khoản tiền tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải trả cho người gửi tiền tại TCTD phá sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và hướng dẫn của NHNN;

–          Nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ.

Trường hợp giá trị tài sản không đủ để thanh toán các khoản nợ nêu trên, các đối tượng thuộc cùng một thứ tự ưu tiên được thanh toán theo tỷ lệ phần trăm tương ứng với số nợ.

5. Trả lại tài sản nhận ủy thác, nhận giữ hộ khi TCTD bị tuyên bố phá sản và thanh lý tài sản phá sản

Theo quy định của Luật phá sản 2014, các TCTD được thực hiện hoạt động nhận ủy thác, giữ hộ, quản lý, bảo quản tài sản. Theo đó, khách hàng chuyển giao tài sản cho TCTD giữ hộ, quản lý hộ theo hợp đồng cung cấp dịch vụ của TCTD hoặc chuyển giao tài sản cho TCTD theo hợp đồng ủy thác. Tài sản này không được tính là tài sản của TCTD mà phải trả lại cho chủ tài sản khi TCTD bị phá sản. Do đó, Điều 102 Luật Phá sản 2014 quy định: trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định tuyên bố TCTD phá sản, chủ sở hữu tài sản ủy thác cho TCTD, gửi TCTD giữ hộ, giao TCTD quản lý thông qua hợp đồng ủy thác, giữ hộ, quản lý tài sản phải xuất trình giấy tờ chứng minh quyền sở hữu và hồ sơ, giấy tờ liên quan với cơ quan thi hành án dân sự để nhận lại tài sản của mình.

6. Về giao dịch của TCTD trong giai đoạn kiểm soát đặc biệt

Điều 59 Luật phá sản 2014, quy định về  giao dịch bị coi vô hiệu nhằm ngăn chặn trường hợp doanh nghiệp cố tình tẩu tán tài sản trước phá sản, đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ của tổ chức bị phá sản.

Tuy nhiên, đối với TCTD trong giai đoạn kiểm soát đặc biệt, các giao dịch TCTD được thực hiện dưới sự kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước là NHNN và đều là những giao dịch cần thiết cho việc đảm bảo khả năng thanh toán của TCTD.

Do đó, Điều 103 Luật phá sản 2014 quy định giao dịch của TCTD thực hiện trong giai đoạn NHNN áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt hoặc áp dụng biện pháp phục hồi khả năng thanh toán dưới sự kiểm soát của NHNN sẽ không áp dụng quy định về giao dịch vô hiệu (quy định tại Điều 59 của Luật phá sản 2014)

7. Về quyết định tuyên bố TCTD phá sản

Theo quy định của Luật các TCTD 2010, khi TCTD có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán, NHNN sẽ xem xét áp dụng thủ tục kiểm soát đặc biệt đối với TCTD. Trong quá trình áp dụng thủ tục kiểm soát đặc biệt, NHNN áp dụng nhiều biện pháp để phục hồi hoạt động bình thường của TCTD nhưng TCTD không phục hồi được, NHNN có văn bản gửi Tòa án để phá sản.

Do đó, khi mở thủ tục phá sản đối với TCTD, Luật phá sản 2014 quy định Tòa án không áp dụng thủ tục Hội nghị chủ nợ và thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản lập xong danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ, bảng kê tài sản của TCTD, Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố TCTD phá sản. Quy định này nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết phá sản TCTD, đảm bảo quyền và lợi ích cho các chủ nợ của TCTD và phù hợp đặc thù của TCTD.

Luật phá sản 2014 sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, được kỳ vọng sẽ hạn chế đến mức thấp nhất những hậu quả do phá sản gây ra, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia quan hệ kinh tế trước những rủi ro trong kinh doanh .