Ngày 17/6/2010, Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật trọng tài thương mại số 54/2010/QHII, quy định về thẩm quyền của Trọng tài thương mại, các hình thức trọng tài, tổ chức trọng tài, Trọng tài viên.
Quy định về trình tự, thủ tục trọng tài; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên trong tố tụng trọng tài; thẩm quyền của Tòa án đối với hoạt động trọng tài; tổ chức và hoạt động của Trọng tài nước ngoài tại Việt Nam, thi hành phán quyết trọng tài.
So với Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 thì Luật trọng tài thương mại năm 2010 với 13 Chương, 82 Điều có những điểm mới cơ bản như sau:
1. Luật Trọng tài thương mại đã khắc phục những tồn tại của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 (Pháp lệnh TTTM):
Cụ thể là: Khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài đối với các tranh chấp thương mại, trên cơ sở đó bảo đảm sự tương thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Thương mại, Luật Đầu tư và các luật chuyên ngành khác với Luật Trọng tài thương mại (Luật TTTM). Luật TTTM đã dỡ bỏ hạn chế của Pháp lệnh TTTM về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại của Trọng tài thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên (Điều 2 Luật TTTM). Đây là một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật TTTM so với Pháp lệnh TTTM và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn sử dụng Trọng tài của các nước trên thế giới.
Khắc phục sự không rõ ràng của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 về các tình huống có thể làm vô hiệu thoả thuận trọng tài. Điều 18 của Luật TTTM giới hạn 6 tình huống theo đó thoả thuận trọng tài vô hiệu. Đặc biệt, còn có quy định trường hợp thỏa thuận trọng tài không rõ ràng thì bên khởi kiện (nguyên đơn) có quyền được tự do lựa chọn tổ chức trọng tài thích hợp để khởi kiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Với quy định này sẽ ngăn chặn và giảm bớt tình trạng thỏa thuận trọng tài bị vô hiệu hoặc tình trạng không có cơ quan nào giải quyết tranh chấp.
2. Luật TTTM có quy định tại Điều 17 nhằm bảo vệ người tiêu dùng trong việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp.
Đối với các tranh chấp giữa nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng, mặc dù điều khoản trọng tài đã được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hoá, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn thỏa thuận trọng tài thì người tiêu dùng vẫn được quyền lựa chọn Trọng tài hoặc Tòa án để giải quyết tranh chấp. Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ chỉ được quyền khởi kiện tại Trọng tài nếu được người tiêu dùng chấp thuận.
Quy định này dựa trên một thực tế là thông thường người tiêu dùng bị đặt ở một vị thế có nhiều nguy cơ bị lạm dụng bởi các điều kiện và điều khoản trong hợp đồng in sẵn của người bán hàng hoặc người cung cấp dịch vụ, do vậy cần có quy định bảo vệ họ trong các tình huống cần thiết
3. Kế thừa Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Điều 20 Luật TTTM có các quy định về tiêu chuẩn tối thiểu đối với Trọng tài viên nhằm hình thành ở nước ta một đội ngũ trọng tài viên nòng cốt có năng lực, có tính chuyên nghiệp, có chuyên môn và uy tín xã hội.
Theo đó, cá nhân có năng lực hành vi dân sự, có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế công tác từ năm năm trở lên có thể là trọng tài viên. Đặc biệt, Luật dành cho các Trung tâm trọng tài quyền được đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn đối với các Trọng tài viên trong danh sách của mình. Tuy nhiên, về nguyên tắc, Trọng tài viên trong trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài hoặc do Trọng tài vụ việc giải quyết đều do các bên đương sự tự lựa chọn dựa trên niềm tin của họ vào tính chuyên nghiệp, kiến thức chuyên môn, uy tín của cá nhân đó và trong trường hợp đó thì nhà chuyên môn nào cũng có thể được các bên chọn làm Trọng tài cho vụ việc của họ. Đó là quá trình sàng lọc mang tính xã hội.
Khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Luật Trọng tài thương mại không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt Nam. Điều đó có nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm trọng tài viên ở Việt Nam nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm họ. Quy định này đáp ứng nhu cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Về trọng tài quy chế, so với Pháp lệnh TTTM, Luật TTTM bổ sung một số điểm mới sau đây:
Thứ nhất, Luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý về Trọng tài quy chế để thay cho khái niệm “Hội đồng trọng tài được thành lập tại Trung tâm trọng tài” do Pháp lệnh năm 2003 quy định. Theo đó, Trọng tài quy chế là hình thức trọng tài được tiến hành tại Trung tâm trọng tài và theo quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài (khoản 6 Điều 3 Luật TTTM).
Thứ hai, Luật cho phép các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng trọng tài phù hợp với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm để tăng thêm tính hấp dẫn đối với các bên tranh chấp.
5. Cho phép các tổ chức trọng tài nước ngoài được mở chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (Chương XII với 07 Điều).
6. Nâng cao vị thế của Trọng tài thông qua việc cho phép Hội đồng Trọng tài được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 47, 48, 49 và 50). Quy định của Luật đã tiếp thu quy định của Luật mẫu UNCITRAL được thông qua năm 2006 nhằm giúp cho tố tụng trọng tài vận hành có hiệu quả hơn.
7. Hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài bị Tòa án tuyên hủy bởi quy định không phù hợp của Pháp lệnh TTTM như quy định về quyền của một bên được gửi đơn lên Toà án yêu cầu huỷ quyết định trọng tài nếu “không đồng ý với quyết định trọng tài”, bởi vì các quy định này của Pháp lệnh đã làm cho tố tụng trọng tài trở nên rất rủi ro và làm mất đi tính chung thẩm của phán quyết trọng tài mà pháp luật của hầu hết các nước đều công nhận.
8. Luật TTTM là đã tiếp thu nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn trong tố tụng là nguyên tắc rất quan trọng đã hình thành lâu đời trong pháp luật tố tụng của các nước phát triển.
Quy định mới của Luật (Điều 13) xác định, khi một bên nhận thấy những quy định của Luật hoặc của thoả thuận trọng tài bị vi phạm mà vẫn tiếp tục thực hiện tố tụng trọng tài và không phản đối vi phạm đó trong thời hạn luật định thì mất quyền phản đối tại Trọng tài hoặc Toà án. Quy định này nhằm ngăn chặn một cách có hiệu quả các hành vi cơ hội trong tố tụng trọng tài.
9. Một trong những điểm quan trọng nhất của Luật TTTM là thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ tranh chấp của các bên.
Luật đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định mối quan hệ pháp lý quan trọng này: xác định rõ Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài và liệt kê 8 nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng tài bao gồm: thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán quyết trọng tài; tuyên thoả thuận trọng tài vô hiệu; xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; giải quyết và yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài; bảo đảm sự có mặt của người làm chứng; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; chỉ định, thay đổi trọng tài viên. Quy định tại các điều luật khác liên quan đã cụ thể hoá nội dung những thẩm quyền này của Toà án. Quy định này đã khắc phục được những bất cập của Pháp lệnh TTTM, tạo điều kiện để các Tòa án và Hội đồng trọng tài cũng như các bên tranh chấp tránh được lúng túng trong các trường hợp cụ thể, góp phần tạo điều kiện thuận lợi để trọng tài hoạt động có hiệu quả.
10. Quy định phù hợp hơn về thủ tục Tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Khác với Pháp lệnh TTTM, thủ tục tòa án xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài theo Luật TTTM chỉ có một cấp và có giá trị chung thẩm. Luật quy định một Hội đồng gồm 03 thẩm phán xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài và quyết định của Hội đồng là chung thẩm có hiệu lực thi hành ngay là phù hợp (Điều 71).
11. Nhằm khuyến khích hoạt động của các tổ chức trọng tài, tạo điều kiện cho các Trọng tài viên nâng cao trình độ nghiệp vụ trọng tài, bảo vệ các quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ, Luật TTTM có 01 điều quy định về việc thành lập Hiệp hội trọng tài.
Hiệp hội trọng tài là tổ chức xã hội – nghề nghiệp của Trọng tài viên và các Trung tâm trọng tài. Việc thành lập và hoạt động của Hiệp hội trọng tài được thực hiện theo quy định của pháp luật về hội nghề nghiệp (Điều 22 Luật TTTM).
Xem thêm: Luật sư trọng tài thương mại
Xem thêm: Luật sư trọng tài quốc tế