Góp ý hoàn thiện thông tư hướng dẫn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh

0
535

 

Ngày 01 tháng 6 năm 2021, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 40/2021/TT-BTC hướng dẫn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 8 năm 2021.

Thông tư số 40/2021/TT-BTC được ban hành nhằm hướng dẫn thực hiện các quy định mới tại Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 và Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế, đáp ứng các yêu cầu quan trọng trong định hướng quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trong thời gian tới theo chủ trương của Chính phủ.

Trong TT 40 có quy định về việc các sàn thương mại điện tử phải thu thuế thay cho cơ quan thuế, vì vậy công ty luật SBLAW có phần trình bày nhằm hoàn thiện các quy định này.

 

1. Về sự phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật

  • Về việc mở rộng đối tượng chịu tác động so với quy định tại Nghị định 126

Khoản 5, Điều 7 Nghị định 126 đã liệt kê đầy đủ và chi tiết 09 đối tượng cụ thể có trách nhiệm khai thuế thay, nộp thuế thay cho người nộp thuế. Tuy nhiên, trong số 09 loại đối tượng này không bao gồm và không có bất cứ đối tượng nào được quy định có liên quan hoặc có thể được diễn giải để hiểu là “chủ sở hữu sàn TMĐT” cũng như “Tổ chức tại Việt Nam là đối tác của nhà cung cấp nền tảng số ở nước ngoài” là một trong số các đối tượng được quy định tại Điều 7.5 đã viện dẫn.

Theo quy định tại Điều 24 của Luật ban hành Văn bản Quy phạm Pháp luật, Thông tư chỉ được ban hành nhằm mục đích quy định “chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ.” hoặc là quy định “Biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình”.

Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì “Văn bản quy phạm pháp luật phải quy định cụ thể nội dung cần điều chỉnh, không quy định chung chung, không quy định lại các nội dung đã được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật khác” (Điều 8.2 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Khi xem xét đến quy định tại Điều 8.1 của Thông tư 40, có thể nhận thấy quy định tại Điều 8.1 này đang hướng đến quy định chi tiết quy định tại Điều 7 của Nghị định 126, chẳng hạn như (i) Điều 8.1.a của Thông tư tương ứng với quy định tại Điều 7.5.e của Nghị định 126; (ii) Điều 8.1.b của Thông tư tương ứng với Điều 7.5.c của Nghị định 126; (iii) Điều 8.1.c của Thông tư tương ứng với Điều 7.5.đ của Nghị định 126;

Tuy nhiên, khi căn cứ vào Quy định tại Điều 8.2 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về kỹ thuật văn bản quy phạm pháp luật thì quy định tại Điều 8.1 của Thông tư 40 là chưa đáp ứng với kỹ thuật văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể:

  1. Quy định lặp lại những nội dung đã được quy định rõ ràng trong Nghị định 126;
  2. Mở rộng phạm vi đối tượng so với quy định của Nghị định 126;
  3. Điều 7 của Nghị định 126 không giao thẩm quyền được quy định chi tiết hóa nội dung điều này cho Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.

Do đó, Điều 8.1 của Thông tư 40 có thể thuộc trường hợp “Ban hành văn bản quy phạm pháp luật không đúng thẩm quyền” theo quy định tại Điều 14.3 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của văn bản hợp nhất số 10272/VBHN-VPCP, thì “Thủ tục hành chính là trình tự, cách thức thực hiện, hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định để giải quyết một công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức”.

Như đã phân tích ở trên, các đối tượng phải kê khai thay, nộp thuế thay theo quy định của Thông tư 40 không có trong quy định của Nghị định 126. Do vậy, việc Thông tư 40 buộc các đối tượng, chủ thể mới (vốn không được quy định trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn là Nghị định 126) phải thực hiện các thủ tục hành chính về kê khai thuế, nộp thuế có thể bị coi là “quy định thủ tục hành chính trong Thông”, thuộc hành vi bị nghiêm cấm tại khoản 4, Điều 14 Luật ban hành Văn bản Quy phạm Pháp luật.

 

2.Về quy trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, để đảm bảo tính khả thi của văn bản khi áp dụng trên thực tiễn, văn bản quy phạm pháp luật cần phải được tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các bên liên quan và đặc biệt là của đối tượng trực tiếp chịu ảnh hưởng của chính sách. Trong trường hợp của Thông tư 40, những đối tượng này bao gồm các hộ gia đình, cá nhân kinh doanh trên sàn giao dịch TMĐT, sàn giao dịch TMĐT và các “Tổ chức tại Việt Nam là đối tác của nhà cung cấp nền tảng số ở nước ngoài”. Riêng sàn giao dịch TMĐT, theo quy định tại Nghị định 52/2013 thì “thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ sàn TMĐT là thương nhân, tổ chức thiết lập website thương mại điện tử để các thương nhân, tổ chức, cá nhân khác có thể tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình mua bán hàng hóa, dịch vụ trên đó. Theo đó, hiện có rất nhiềuloại hình sàn TMĐT khác nhau như: sàn giao dịch hàng hóa, sàn mua bán, rao vặt, sàn du lịch trực tuyến, sàn giao dịch mua bán bất động sản, sàn gọi đồ ăn, giao hàng, vv…

Cụ thể, Điều 6 của văn bản hợp nhất số 23/VBHN-VPQH của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc tham gia, góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, thực hiện phản biện xã hội đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật quy ddinhjMặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các tổ chức thành viên khác của Mặt trận và các cơ quan, tổ chức khác, cá nhân có quyền và được tạo điều kiện tham gia góp ý kiến về đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật” và “Ý kiến tham gia về đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và ý kiến phản biện xã hội đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật phải được nghiên cứu, giải trình, tiếp thu trong quá trình chỉnh lý dự thảo văn bản

Ngoài ra, Điều 101.2 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng quy định “Trong quá trình soạn thảo thông tư, bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo phải lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản” và “đối với thông tư có quy định ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ, lợi ích của người dân, doanh nghiệp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoặc do tổ chức pháp chế chủ trì soạn thảo thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thành lập hội đồng tư vấn thẩm định có sự tham gia của cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học. thì trong quá trình soạn thảo thông tư, bộ, cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo phải lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản” (Điều 102.1 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật).

Thông tư 40 được coi là ảnh hưởng đến quyền nghĩa vụ, lợi ích của người nộp thuế, liên quan đến nhiều ngành nghề (thương mại điện tử, khoa học và công nghệ, ngân hàng, nội dung số, kinh doanh bán lẻ…) nên các tổ chức, cá nhân bị ảnh hưởng bởi thông tư phải được lấy ý kiến về dự thảo thông tư này và cần phải lập Hội đồng tư vấn thẩm định có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan và các chuyên gia, nhà khoa học.

Tuy nhiên, khi tìm hiểu về quá trình ban hành Thông tư 40, theo phản ánh của doanh nghiệp (đã được đại diện Tổng Cục Thuế thừa nhận) Dự thảo lần 1 được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ lần đầu tiên vào tháng 03 năm 2021 không hề có quy định về trách nhiệm của “Tổ chức tại Việt Nam là đối tác của nhà cung cấp nền tảng số ở nước ngoài” hay chủ sở hữu sàn TMĐT trong việc kê khai thay, nộp thuế thay. Điều này dẫn đến khó khăn cho các cá nhân, tổ chức có liên quan trong việc tiếp cận thông tin và hạn chế cơ hội đóng góp ý kiến trong quá trình xây dựng pháp luật theo luật định.

Theo thông tin từ phía Tổng Cục Thuế, vào ngày 29/03/2021, Tổng Cục Thuế đã tổ chức hội thảo chuyên đề về “Quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh TMĐT, kinh doanh dựa trên nền tảng số của nhà cung cấp ở nước ngoài”, với sự tham gia của nhiều đại biểu đến từ Ngân hàng Thế giới, Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam, các hiệp hội, doanh nghiệp trong đó có Sàn TMĐT như Lazada Việt Nam, Shopee, Amazon…. Trên thực tế, hội thảo này trao đổi các thông tin nội dung liên quan đến dự thảo Thông tư hướng dẫn thi hành một số điều luật của Luật Quản lý thuế và nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của chính phủ quy định chi tiết một số điều luật của Luật Quản lý thuế và không bao gồm các nội dung liên quan đến dự thảo Thông tư hướng dẫn thuế và quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh (tức Thông tư 40).

Như vậy, trên thực tế, các sàn TMĐT hay các cá nhân kinh doanh trên Sàn TMĐT – đối tượng chịu tác động trực tiếp của Thông tư 04 không được Cơ quan thuế lấy ý kiến góp ý chính thức đối với Dự thảo lần 1 cũng như phiên bản lần cuối theo quy định. Do đó, chúng tôi cho rằng trình tự, thủ tục ban hành Thông tư 40 chưa thực sự tuân thủ     với Quy định tại Điều 14.3 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

 

3.Về sự phù hợp với Luật thuế thu nhập cá nhân

Sàn TMĐT không phải là đơn vị “trả thu nhập” và do đó không thuộc đối tượng có trách nhiệm kê khai thay, nộp thuế thay

Luật thuế thu nhập cá nhân đã liệt kê ra 05 trường hợp tổ chức, cá nhân trả thu nhập cho cá nhân bao gồm:

  1. Tổ chức, cá nhân chi trả tiền lương, tiền công (Điều 11 của Luật thuế thu nhập cá nhân);
  2. Tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập từ đầu tư vốn (Điều 12 của Luật thuế thu nhập cá nhân);
  3. Tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập do trúng thưởng (Điều 15 của Luật thuế thu nhập cá nhân)
  4. Tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập từ tiền bản quyền (Điều 16 của Luật thuế thu nhập cá nhân)
  5. Tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập từ hoạt động nhượng quyền thương mại (Điều 17 của Luật thuế thu nhập cá nhân)

Do đó, có thể hiểu, các tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập được quy định trong Luật quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành sẽ là các tổ chức, cá nhân thuộc trường hợp được quy định ở trên.

Trong khi đó, theo quy định của Nghị định 52/2013/NĐ-CP quy định về hoạt động thương mại điện tử thì “thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ sàn TMĐT là thương nhân, tổ chức thiết lập website thương mại điện tử để các thương nhân, tổ chức, cá nhân khác có thể tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình mua bán hàng hóa, dịch vụ trên đó”.

Theo quy định trên thì Sàn TMĐT chỉ là đơn vị cung cấp dịch vụ thương mại điện tử để tạo điều kiện cho cho người bán và người mua thực hiện các giao dịch mua bán được thuận lợi và an toàn. Trong mối quan hệ 03 bên giữa Người bán hàng – Chủ sở hữu sàn TMĐT – Người mua hàng, thì chủ sở hữu của sàn TMĐT không phải là đối tượng “trả thu nhập” cho người bán. Do vậy, việc quy định chủ sở hưu sàn TMĐT phải kê khai thay, nộp thay thuế thu nhập cá nhân cho người bán là mâu thuẫn với Luật Thuế Thu nhập Cá nhân.

Ngoài ra, việc quy định chủ sở hữu sàn TMĐT phải thực hiện kê khai thay và khấu trừ thuế của người bán trên sàn TMĐT sẽ không phù hợp với thực tiễn hoạt động của một số sàn TMĐT hiện hành khi các sàn giao dịch này không hề quản lý hay nhận các khoản thanh toán từ người mua mà do người bán và người mua giao dịch trực tiếp với nhau hoặc thông qua các bên trung gian như đơn vị cung ứng dịch vụ thanh toán (các ngân hàng, công ty cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán) hay các đơn vị giao nhận.

Do đó, việc Thông tư 40 coi chủ sở hữu sàn TMĐT là đơn vị chi trả thu nhập cho người bán là chưa phù hợp với các quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân, thực tiễn hoạt động của các sàn TMĐT hiện hành.

4. Về sự phù hợp với Luật Thuế Giá trị Gia tăng

Điều 13 Luật thuế Giá trị gia tăng sửa đổi năm 2013 hướng dẫn các trường hợp hoàn thuế chỉ áp dụng đối với 7 trường hợp đặc thù, không bao gồm trường hợp hộ gia đình và cá nhân kinh doanh. Đồng thời, chính tại khoản 5, Điều 5 Thông tư 40 cũng quy định “Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh nộp thuế theo Phương pháp kê khai không phải quyết toán thuế”, Điều 6 “Cá nhân kinh doanh nộp thuế theo từng lần phát sinh thực hiện khai thuế khi có phát sinh doanh thu chịu thuế”, tương tự Điều 7 hướng dẫn phương pháp kê khai khoán cũng không có quy định về cơ chế quyết toán, hoàn thuế khi cá nhân, hộ kinh doanh khai và nộp thừa thuế. Như vậy, cơ chế để sàn khấu trừ toàn bộ doanh thu của cá nhân và hướng xử lý sau đó chưa thực sự phù hợp quy định hiện hành về thuế giá trị gia tăng.

5.Về sự phù hợp với quy định của Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử

Theo quy định của Điều 37.7 của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP thì Người bán trên sàn TMĐT có nghĩa vụ “Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật”.

Theo quy định về việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật được quy định tại Điều 156.2 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn”.

Căn cứ vào các quy định nêu trên, có thể thấy Thông tư 40 và Nghị định 52 đều cùng quy định về một vấn đề là “nghĩa vụ thuế của các cá nhân, tổ chức bán hàng trên Sàn TMĐT” và các quy định này đang khác nhau. Do đó, căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành về hiệu lực văn bản quy phạm pháp luật thì các quy định của Nghị định số 52 sẽ được áp dụng.

Trong trường hợp này, Thông tư 40 có thể bị xem là mâu thuẫn với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan cấp trên là Chính Phủ (theo quy định tại Điều 14.1 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật).

6.Về sự phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành về cung cấp thông tin

Theo quy định tại Điều 8.2.đ của Thông tư 40 thì “Trong thời gian chưa thực hiện được việc khai thuế thay, nộp thuế thay cho cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu sàn TMĐT phải có trách nhiệm cung cấp các thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh của cá nhân thông qua sàn theo yêu cầu của cơ quan thuế theo quy định của pháp luật như: họ tên; số định danh cá nhân hoặc chứng minh nhân dân hoặc căn cước công dân hoặc hộ chiếu; mã số thuế; địa chỉ; email; số điện thoại liên lạc; hàng hóa, dịch vụ cung cấp; doanh thu kinh doanh; tài khoản ngân hàng của người bán; thông tin khác liên quan”

Tuy nhiên, theo quy định của Nghị định số 52 quy định về thương mại điện tử thì các thông tin mà sàn TMĐT thu thập của Người bán không bao gồm CMND hay CCCD/Hộ chiếu của Người bán. Do đó, quy định tại Điều 8.2.đ nêu trên được coi là chưa phù hợp với quy định của Nghị định 52.

Ngoài ra, theo thông tin từ Tổng Cục thuế, việc cung cấp thông tin cho cơ quan thuế sẽ được thực hiện bằng trình tự, cách thức thực hiện mới qua hình thức điện tử hàng tháng. Điều này có nghĩa là yêu cầu cung cấp thông tin cho cơ quan thuế trở thành yêu cầu báo cáo hàng tháng của doanh nghiệp cho cơ quan thuế về dữ liệu của người bán là cá nhân. Có thể nói, quy định này cũng đang tạo ra một thủ tục hành chính mới cho doanh nghiệp: báo cáo hàng tháng cho cơ quan thuế theo hình thức điện tử. Việc “quy định thủ tục hành chính trong Thông tư” là vi bị nghiêm cấm theo quy định khoản 4, Điều 14 Luật ban hành Văn bản Quy phạm Pháp luật.

Theo thông lệ thực thi pháp luật hiện hành, việc cung cấp thông tin cho cơ quan có thẩm quyền được dựa trên yêu cầu theo vụ việc bằng văn bản cho các trường hợp nghi ngờ vi phạm các quy định của pháp luật cụ thể chứ không có nghĩa là chia sẻ dữ liệu lớn được thực hiện tự động hàng tháng.

Hiện nay, chưa có quy định pháp luật nào yêu cầu doanh nghiệp phải báo cáo, chia sẻ dữ liệu của khách hàng cho cơ quan nhà nước bằng hình thức điện tử, tự động hàng tháng. Cũng chưa có cơ chế nào để giải quyết tranh chấp phát sinh trong trường hợp lộ lọt dữ liệu có thể xảy ra từ phía cơ quan nhà nước nhưng gây tổn thất cho doanh nghiệp.

Luật Quản lý Thuế chỉ quy định tổ chức cá nhân có trách nhiệm “Cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế theo đề nghị của cơ quan quản lý thuế” (khoản 1, Điều 29) chứ không phải báo cáo hàng tháng hoặc định kỳ.

Luật An ninh mạng, Luật An toàn thông tin mạng, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Nghị định 52 và các quy định pháp luật có liên quan đến bảo mật thông tin cá nhân tại các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử đều yêu cầu doanh nghiệp phải có trách nhiệm bảo mật thông tin của khách hàng và chỉ được phép chia sẻ cho bên thứ ba nếu được sự đồng ý của chủ thể thông tin hoặc có yêu cầu cụ thể từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cụ thể như sau:

  • Điểm a, Khoản 2, Điều 26 Luật An ninh mạng: Doanh nghiệp có trách nhiệm “bảo mật thông tin, tài khoản của người dùng; cung cấp thông tin người dùng cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an khi có yêu cầu bằng văn bản để phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng”.
  • Điểm c, Khoản 1, Điều 17 Luật An toàn thông tin mạng: doanh nghiệp có trách nhiệm “Không được cung cấp, chia sẻ, phát tán thông tin cá nhân mà mình đã thu thập, tiếp cận, kiểm soát cho bên thứ ba, trừ trường hợp có sự đồng ý của chủ thể thông tin cá nhân đó hoặc theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
  • Khoản 1, Điều 6 Luật bảo vệ người tiêu dùng: “Người tiêu dùng được bảo đảm an toàn, bí mật thông tin của mình khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.”
  • Theo thông tin từ Tổng Cục Thuế, việc cung cấp thông tin cho cơ quan thuế sẽ được thực hiện bằng trình tự, cách thức thực hiện mới qua hình thức điện tử hàng tháng. Điều này có nghĩa là yêu cầu cung cấp thông tin cho cơ quan thuế trở thành yêu cầu báo cáo hàng tháng của doanh nghiệp cho cơ quan thuế về dữ liệu của người bán là cá nhân. Có thể nói, quy định này cũng đang tạo ra một thủ tục hành chính mới cho doanh nghiệp: báo cáo hàng tháng cho cơ quan thuế theo hình thức điện tử. Nghị định 52 cũng chỉ quy định sàn TMĐT có nghĩa vụ “Hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước điều tra các hành vi kinh doanh vi phạm pháp luật, cung cấp thông tin đăng ký, lịch sử giao dịch và các tài liệu khác về đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật trên sàn TMĐT” (Điều 36.9).

7.Chưa phù hợp với thực tiễn quản lý và thu thuế hiện hành theo quy định tại Luật Quản lý thuế

Theo khoản 1, Điều 45 Luật Quản lý thuế quy định “người nộp thuế nộp hồ sơ khai thuế tại cơ quan quản lý thuế trực tiếp”, do vậy, hộ gia đình và cá nhân kinh doanh sẽ phải kê khai và nộp thuế tại cơ quan thuế nơi họ đặt địa điểm kinh doanh.

Trong khi đó, các sàn TMĐT có thể có địa điểm kinh doanh ở tỉnh khác (thường là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh). Vậy, việc yêu cầu các sàn TMĐT kê khai thay và nộp thuế thay cho cá nhân kinh doanh trên sàn sẽ dẫn đến mâu thuẫn với quy định hiện hành trong trường hợp cá nhân kinh doanh có trụ sở tại tỉnh khác. Điều này cũng gây ra nhiều khó khăn, vướng mắc cho các sàn TMĐT và cá nhân kinh doanh trong việc chứng minh với cơ quan thuế về số thuế đã khấu trừ, nộp thay với cơ quan thuế tại địa phương.

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2, Điều 4, Thông tư 40, “Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có doanh thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong năm dương lịch từ 100 triệu đồng trở xuống thì thuộc trường hợp không phải nộp thuế GTGT và không phải nộp thuế TNCN theo quy định pháp luật về thuế GTGT và thuế TNCN”. Không phải mọi cá nhân kinh doanh trên các sàn TMĐT đều có thể có được doanh thu đạt mức 100 triệu đồng mỗi năm. Tuy nhiên, việc yêu cầu các sàn TMĐT phải kê khai thay, nộp thuế thay cho cá nhân kinh doanh trên sàn sẽ dẫn đến tình huống các sàn TMĐT phải khấu trừ thuế từ toàn bộ doanh thu của cá nhân (bao gồm cả cá nhân kinh doanh. có doanh thu dưới 100 triệu đồng một năm). Điều này vô hình trung sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các đối tượng là cá nhân kinh doanh trên sàn TMĐT và các cá nhân kinh doanh theo hình thức truyền thống hay các hình thức trực tuyến khác.